Đến làng Thủ Sỹ (xã Tân Hưng, Hưng Yên) du khách không chỉ được tìm hiểu về quy trình tạo ra sản phẩm, mà còn được tận tay trải nghiệm và học cách vót nan, thao tác để tạo ra những sản phẩm của riêng mình.
Làng nghề hơn 200 tuổi
Nằm cách trung tâm hành chính tỉnh Hưng Yên chừng 7km, làng Thủ Sỹ, xã Tân Hưng từ lâu đã được biết đến như cái nôi của nghề đan đó, tồn tại hơn 200 năm nay.
Trải qua thăng trầm của thời gian, những chiếc đó, rọ, nơm… đan bằng tre nứa vẫn hiện diện như một phần hồn quê, gắn với ký ức của biết bao thế hệ nông dân vùng châu thổ sông Hồng. Không chỉ là công cụ mưu sinh, mỗi sản phẩm còn chứa đựng sự khéo léo, kiên nhẫn, tâm huyết và tình yêu nghề của người nghệ nhân.
Làng Tất có nghiệp có nghề/Có nghiệp đan đó có nghề làm hom - câu thơ truyền miệng ấy được những bậc cao niên trong làng nhắc đến nhiều lần với sự hồ hởi khi kể về cái thời cả làng quanh năm rộn ràng tiếng chẻ tre, đan đó vui như hội.
Ghé thăm nhà cụ Lương Sơn Bạc (85 tuổi, nghệ nhân đan đó thôn Tất Viên), chúng tôi bắt gặp một không gian đậm chất làng quê Bắc Bộ. Ngôi nhà ba gian cổ kính, khoảng sân gạch đã nhuốm màu rêu phong.
Những chiếc đơm, đó, rọ treo đầy sân được buộc thành chùm, trông tựa như những bông hoa khổng lồ kết bằng tre vàng óng. Dưới mái hiên bạc màu, các cụ đang miệt mài với công việc thủ công quen thuộc.
Theo lời cụ Bạc, ngày xưa, có một người phụ nữ dân tộc Mường ở tận Thanh Hóa lấy chồng rồi theo về sinh sống ở làng. Thấy dân khốn khó, phải vất vả với đồng chiêm trũng quanh năm ngày tháng mà vẫn không đủ ăn, đủ mặc, sẵn có nghề đan rọ, đan đó để bẫy cá, tôm từ quê nhà, bà đã mang nghề này truyền lại cho con, cho cháu. Nghề đan đó bắt đầu từ đó.
“Tính đến nay, nghề đan đó của chúng tôi đã có tuổi đời trên 200 năm rồi. Khi tôi lên 10 tuổi thì đã biết làm việc phụ gia đình, ban ngày vừa đan, vừa đi học. Lớn lên đi bộ đội, đi làm ở các cơ quan, khi về với cuộc sống đời thường tôi lại tiếp tục nghề đan đó”, cụ Lương Sơn Bạc chia sẻ.

“Giữ lửa” nghề truyền thống
Cụ Bạc cho biết, để tạo ra một chiếc đó đẹp, tròn và đạt tiêu chuẩn bán ra thị trường, bước quan trọng nhất là chọn tre, nứa già mới có thể đan được những chiếc đó chắc chắn, bền đẹp...
Theo cụ Bạc, trong quá trình đan đó, công đoạn dễ nhất là đan hom miệng đó, khó nhất là đan cạp, vành miệng và đan kết thúc đuôi đó. Chiếc đó có hình bầu dục, miệng nhỏ, đuôi nhọn, còn nắp miệng là chiếc hom...
“Muốn tăng độ bền cho chiếc đó, sau khi đan xong, người đan sẽ hun chúng trên gác bếp, khi đó ngả vàng sậm thì có thể giao bán cho khách mua”, cụ Bạc cho biết.
Kỹ thuật đan đó cực kỳ phức tạp, một người thợ nếu để đan hoàn thiện một chiếc đó phải học mất thời gian khá dài, trải qua nhiều công đoạn khác nhau, tích lũy được kinh nghiệm rồi thì mới có sản phẩm đẹp. Bởi vậy, gia đình cụ Bạc mỗi người chia nhau một việc, người chẻ, người vót che, nứa rồi sau đó mới thực hiện đan đó.
90 tuổi - ở độ tuổi gần đất xa trời, cụ Phạm Thị Canh vẫn thoăn thoắt tay đan để tạo ra những chiếc đó, rọ đẹp đẽ. Nhìn đôi bàn tay hằn những vết nhăn của nghề và tuổi tác, chúng tôi phần nào thấu hiểu được sự yêu nghề, muốn giữ nghề truyền thống làng mình của những bậc cao niên như cụ.
“Tôi năm nay đã 90 tuổi rồi, nhưng may mắn được gia tiên và các cụ phù hộ cho đôi mắt sáng và sức khỏe dẻo dai. Tôi còn sống ngày nào thì vẫn còn đan ngày đó”, cụ Canh bộc bạch.
Theo chia sẻ của các bậc lão làng, trước đây, khi quá trình đô thị hóa chưa tác động sâu sắc đến nền nếp sinh hoạt của mọi gia đình thì nghề đan đó, đan rọ mang lại khoản thu nhập chính cho bà con nơi đây. Đó, rọ làm ra đến đâu, bán hết đến đó. Từ người lớn đến trẻ nhỏ, cứ theo tay mà truyền cho nhau. Trẻ em từ 5 - 7 tuổi đã biết pha nan, lên khung, xoáy góc.
Nhưng giờ đây, các sản phẩm gia dụng khác được ưa chuộng hơn, nhu cầu của xã hội không còn cao như trước đây, sản phẩm làm ra không còn “cháy hàng” nữa, nhưng những người yêu nghề, say nghề như cụ Bạc, cụ Canh vẫn luôn giữ niềm tin mãnh liệt rằng, nghề này sẽ không bao giờ mất.
“Nghề này không bao giờ mất được, truyền thống duy tôn kiếp kiếp đời đời, chỉ giảm đi và ít người làm chứ không bao giờ mất”, cụ Bạc tin tưởng khẳng định.

Chuyển mình để thích ứng
Trong quá khứ, nghề đan đó từng nuôi sống cả làng. Người già, phụ nữ, trẻ em đều có thể tham gia đan, mỗi gia đình như một xưởng sản xuất nhỏ. Hình ảnh cả xóm cùng ngồi bên hiên, tay thoăn thoắt đan nan tre, tiếng trò chuyện rộn rã, đã trở thành ký ức đẹp của bao thế hệ.
Ngày nay, khi phương tiện đánh bắt hiện đại phát triển, các ngư cụ truyền thống hiện ít được sử dụng hơn. Song nghề đan đó ở làng Thủ Sỹ vẫn không hề mai một, bởi ngoài mục đích sử dụng, người nghệ nhân còn biết biến hóa sản phẩm thích ứng với thời cuộc.
Anh Phạm Văn Bạo - một nghệ nhân trẻ của làng, cho biết năm 2018, sau khi nhận thấy nghề đan đó, rọ truyền thống của quê hương có nguy cơ mai một, anh đã tìm cách chuyển hướng sản xuất từ sản phẩm đó phục vụ đánh bắt thủy sản chuyển sang mặt hàng đó trang trí.
“Những ngày đầu, tôi đi tìm hiểu nhu cầu của thị trường để lựa chọn nguyên liệu, kiểu dáng; đi chào hàng ở một số quán cà phê, trà sữa, nhà hàng… Cứ thế, khách hàng nọ mách khách hàng kia, tôi dần có nhiều đơn hàng và được khách hàng ở nhiều tỉnh, thành phố biết đến”, anh Bạo chia sẻ.
Với mục đích dùng để trang trí, yêu cầu các mắt đan đó phải đều, miệng đó lớn hơn để lồng được bóng đèn vào trong. Đó được sản xuất với nhiều kiểu dáng như nửa đó, đó chụp đuôi bạch tuộc…
Ngoài ra, anh Bạo còn làm khung sẵn các mẫu đó, nơm, rọ để giao cho các hộ làm nghề trong thôn nhận về sản xuất theo số lượng, kỹ thuật yêu cầu, từ đó giúp các hộ dân có thêm thu nhập, gắn bó với nghề cha ông để lại.
Theo anh Bạo, các sản phẩm của làng Thủ Sỹ không chỉ tiêu thụ từ Bắc tới Nam, mà còn được xuất khẩu ra nước ngoài như: Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ...
Đặc biệt, để nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho người nông dân, người làng Thủ Sỹ đã có một hướng đi mới trong bảo tồn, phát triển sản phẩm làng nghề.
“Chúng tôi đã phát triển mô hình du lịch nông thôn, để du khách có thể trải nghiệm được những cung bậc cảm xúc khi về với làng nghề Thủ Sỹ” - anh Bạo thông tin về cách làm mới của làng.
Theo đó, khi đến đây, du khách không chỉ được tìm hiểu về quy trình tạo ra sản phẩm, mà còn được tận tay trải nghiệm và học cách vót nan, cách thao tác để tạo ra những sản phẩm của riêng mình.
Anh Nguyễn Văn Bằng, hướng dẫn viên du lịch tại địa phương, cho biết không chỉ khách du lịch trong nước mà khách nước ngoài cũng rất thích đến với làng nghề đan đó Thủ Sỹ. Bởi nơi đây vẫn giữ được vẻ mộc mạc, chân chất của làng quê Bắc Bộ, khác xa với những điểm đến đã bị đô thị hóa.
“Điều khiến du khách quốc tế thích thú nhất là họ không chỉ được xem mà còn được tận tay trải nghiệm và học cách vót nan, đan một phần chiếc đó. Họ kinh ngạc khi thấy chỉ với đoạn tre nứa và sự khéo léo thủ công, người Việt có thể tạo ra một công cụ đánh bắt cá thông minh đến vậy”, anh Bằng chia sẻ.
Với chị Lê Thị Thanh Huyền, một du khách từ Hà Nội, mỗi chiếc đó, chiếc nơm không chỉ là công cụ, mà còn là một tác phẩm thủ công độc đáo. Nó thể hiện tính kiên nhẫn, bền bỉ và óc thẩm mỹ tinh tế của người nghệ nhân.
“Nhìn các bác, các cụ tỉ mẩn, kiên nhẫn đan từng nan tre mà tôi thấy vô cùng xúc động. Nghề này không chỉ là lao động đơn thuần, mà còn chứa đựng tinh thần gìn giữ văn hóa và sự sáng tạo không ngừng của người Việt”, chị Huyền chia sẻ.

Sự xuất hiện của du khách đã mở ra hướng phát triển mới cho Thủ Sỹ. Nhiều hộ dân trong làng đã mạnh dạn cải tạo nhà cửa theo phong cách nhà cổ với mái ngói rêu phong, đồng thời bố trí các không gian chụp ảnh độc đáo với sản phẩm đó, rọ, tạo thành điểm nhấn thu hút du khách.
Hiện tại, xã Tân Hưng đã có hai thôn (Tất Viên và Nội Lăng) được công nhận là làng nghề truyền thống đan đó, thu hút khoảng 500 lao động tham gia sản xuất xen kẽ với nông nghiệp.
Để phát huy vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế và du lịch, chính quyền địa phương đã tích cực làm tốt công tác tuyên truyền, động viên lớp trẻ giữ nghề và gắn kết với du lịch nông thôn. Sự nỗ lực giữ “lửa” nghề thể hiện rõ qua hoạt động của những nghệ nhân tiêu biểu như cụ Lương Sơn Bạc và anh Phạm Văn Bạo.
Rời làng Thủ Sỹ, chúng tôi bắt gặp hình ảnh những người dân trên những chiếc xe thồ với hàng trăm chiếc đó, rọ băng qua những cánh đồng tạo nên bức tranh làng quê Thủ Sỹ bình yên và đậm đà nét văn hóa vùng Đồng bằng Bắc Bộ.
Khi được gắn với du lịch và có đầu ra ổn định, chúng tôi tin rằng, những làng nghề không chỉ giúp bảo tồn nét đẹp dân gian, mà còn tạo ra sinh kế bền vững cho người dân.
Mỗi năm, làng nghề Thủ Sỹ cung cấp khoảng 650.000 sản phẩm đó, nơm, rọ các loại, đem lại 50% thu nhập tăng thêm cho người dân. Để giữ nghề, những người con Thủ Sỹ đã không ngừng chuyển mình để thích ứng. Họ đã thành công khi biến chiếc đó truyền thống thành sản phẩm trang trí nội thất, mở rộng thị trường xuất khẩu ra nước ngoài... Quan trọng hơn, việc phát triển mô hình du lịch nông thôn đã trở thành cầu nối hiệu quả, đưa du khách về trải nghiệm trực tiếp, biến những nan tre, sợi nứa thành kỷ niệm văn hóa của người Việt.