Lưu giữ và lan tỏa những khoảnh khắc truyền cảm hứng về lòng yêu nước, tự hào dân tộc với thế giới
(Chinhphu.vn) - Để những hình ảnh đẹp nhất, ấn tượng nhất về Lễ kỷ niệm diễu binh, diễu hành 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9 đến được với nhân dân, đồng bào và đông đảo khán giả trong và ngoài nước là sự nỗ lực, cố gắng của các phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên, các nhà báo của các cơ quan thông tấn Việt Nam và quốc tế trong suốt thời gian qua từ các buổi hợp luyện, tổng hợp luyện, sơ duyệt, tổng duyệt…
Triển lãm Thành tựu đất nước đón hơn 650.000 lượt khách trong ngày thứ 3 mở cửa
(Chinhphu.vn) - Trong ngày thứ 3 mở cửa (30/8), Triển lãm Thành tựu kinh tế-xã hội của đất nước tại Trung tâm Triển lãm quốc gia (xã Đông Anh, Hà Nội) đã ghi nhận con số kỷ lục hơn 650.000 lượt khách tham quan, cho thấy sự quan tâm của công chúng đối Triển lãm.
Hà Nội đón hơn 2 triệu lượt khách dịp Quốc khánh 2/9
.t1 { text-align: justify; }
Chiều 2/9, Sở Du lịch Hà Nội có báo cáo kết quả hoạt động du lịch thành phố dịp nghỉ lễ Quốc khánh 2/9.
Theo báo cáo, trong 4 ngày nghỉ lễ Quốc khánh 2/9 (từ 30/8 đến hết ngày 2/9), Hà Nội đón khoảng 2,08 triệu lượt khách, tăng gấp 3 lần so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó khách quốc tế ước đón trên 80 nghìn lượt khách, tăng 35% so với cùng kỳ năm 2024 (một số thị khách hàng đầu gồm: Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Mỹ, Nhật Bản, Anh, Úc,...). Tổng thu du lịch khoảng 4,5 nghìn tỷ, tăng khoảng 80% so với cùng kỳ năm 2024.
Dịp nghỉ lễ Quốc khánh 2/9 năm nay, Hà Nội là tâm điểm quan tâm của người dân và du khách bởi các sự kiện hấp dẫn kỷ niệm 80 năm Quốc khánh, đặc biệt là hoạt động diễu binh, diễu hành. Khối khách sạn 3-5 sao công suất sử dụng phòng cao, nhiều khách sạn đạt công suất 100% vào ngày 1/9: khách sạn Novotel Thái Hà, khách sạn Novotel Suites, khách sạn Lacasa Hà Nội, khách sạn Bảo Sơn, khách sạn Grand Mercue,…
Ước tính kỳ nghỉ lễ 2/9 năm 2025 công suất sử dụng phòng bình quân khối khách sạn, căn hộ du lịch đạt khoảng 83% tăng 22,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2024.
Hà Nội là tâm điểm quan tâm của người dân và du khách bởi các sự kiện hấp dẫn kỷ niệm 80 năm Quốc khánh.
Các hoạt động nổi bật trong dịp nghỉ lễ Quốc khánh 2/9, Sở Du lịch Hà Nội phối hợp với Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức tặng 35.000 suất quà cho du khách đến thăm, viếng tại Lăng.
Tối 30/8, Sở Du lịch Hà Nội phối hợp với UBND phường Ba Đình khai mạc chương trình “Sắc đỏ Ba Đình” và chuỗi hoạt động quảng bá du lịch văn hóa, lịch sử Hà Nội năm 2025. Tiếp đó, ngày 31/8, Sở Du lịch tổ chức chương trình khảo sát chương trình du lịch tàu hỏa 2 tầng Hà Nội - Bắc Ninh mang tên “The Hanoi Train - Đoàn tàu du lịch Hà Nội 5 Cửa Ô”.
Triển lãm 80 năm hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc diễn ra tại Trung tâm hội chợ triển lãm quốc gia - Đông Anh với hàng trăm hoạt động mỗi ngày đã thu hút khoảng gần 1,2 triệu lượt khách tham quan chỉ trong 3 ngày (từ ngày 28/8 đến ngày 31/8/2025).
Cũng trong dịp này, các bảo tàng trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch mở cửa miễn phí phục vụ nhân dân và du khách quốc tế tham quan các bảo tàng từ ngày 1/9 đến ngày 3/9. Nhà hát Nghệ thuật đương đại Việt Nam cũng mở cửa phục vụ miễn phí nhân dân, đặc biệt là các em nhỏ với các chương trình múa rối nước và các chương trình nghệ thuật, ca nhạc hấp dẫn...
Hàng trăm nghìn khách tham quan đến với Triển lãm Thành tựu đất nước
(Chinhphu.vn) - Sáng 30/8, thông tin với báo chí, đại diện Ban tổ chức cho biết, trong ngày thứ hai diễn ra Triển lãm “80 năm Hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” (29/8) tại Đông Anh, Hà Nội, Triển lãm đã thu hút gần 300 nghìn khách tham quan.
Vận hội quốc gia trong kỷ nguyên mới: Bản sắc văn hóa là căn cốt để vươn tầm
PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội: Văn hóa là điểm tựa - sợi dây kết nối
PGS.TS Bùi Hoài Sơn.
Tám mươi năm đã trôi qua kể từ buổi sáng lịch sử tại Quảng trường Ba Đình, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc. 80 năm không dài so với lịch sử mấy nghìn năm dựng nước, nhưng đủ để chúng ta chiêm nghiệm về vận hội thay đổi vận mệnh đất nước và từ đó tự tin hướng tới những vận hội mới.
Lịch sử dân tộc ta, từ buổi bình minh của quốc gia Văn Lang, đến những trang sử chống ngoại xâm lẫy lừng, từ Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa cho tới Điện Biên Phủ và Đại thắng mùa Xuân 1975, chưa một lần người Việt Nam chịu khuất phục.
Mỗi thời kỳ, cha ông đều biến gian nan thành sức mạnh, nắm bắt vận hội để đưa đất nước bước sang trang mới. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là minh chứng hùng hồn nhất cho trí tuệ và khát vọng của dân tộc: Trong khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng quyết đoán, cả dân tộc đồng loạt vùng lên mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Và từ đó, bao thế hệ đã kiên cường chiến đấu, hy sinh để bảo vệ non sông, giữ vững nền độc lập, để chúng ta hôm nay được sống trong hòa bình.
Nhìn lại chặng đường đổi mới từ 1986 đến nay, càng thấm thía giá trị của một vận hội khác - vận hội mở cửa, hội nhập và phát triển. Từ một đất nước nghèo nàn, chúng ta từng bước khẳng định vị thế, nâng cao đời sống nhân dân, mở rộng cánh cửa ra thế giới. Đổi mới đã trở thành dấu mốc chuyển mình vĩ đại, sánh vai cùng bạn bè năm châu. Mỗi thành tựu trong 40 năm đổi mới đều in đậm dấu ấn của một dân tộc biết vượt qua thử thách, vươn mình trong nghịch cảnh.
Giờ đây, ở thời khắc 80 năm Quốc khánh, chúng ta lại đứng trước một vận hội mới - vận hội của một Việt Nam độc lập, tự cường, sáng tạo trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0. Kinh tế tăng trưởng, khát vọng thịnh vượng được hun đúc, cải cách thể chế, tinh gọn bộ máy, sáp nhập, tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp… đang mở ra con đường quản trị hiện đại, hiệu quả, tinh gọn.
Những công trình hiện đại, những thành phố năng động, những người trẻ khởi nghiệp sáng tạo, tất cả đang góp phần tạo nên một diện mạo mới cho đất nước. Cùng lúc ấy, giáo dục và thế hệ trẻ được đặt ở vị trí trung tâm của khát vọng này. Nếu trong quá khứ, thanh niên lên đường giành độc lập, thì ngày nay thế hệ trẻ là những chiến sĩ trên mặt trận tri thức, công nghệ, sáng tạo, mang trong mình sứ mệnh đưa Việt Nam vươn tầm.
Tuy nhiên, đi cùng vận hội luôn là thách thức: biến đổi khí hậu, cạnh tranh toàn cầu, nguy cơ bản sắc bị phai mờ trong dòng chảy hội nhập… tất cả đều nhắc nhở, vận hội chỉ trở thành hiện thực nếu được nắm bắt bằng bản lĩnh và trí tuệ.
Trong thử thách ấy, văn hóa sẽ tiếp tục là điểm tựa tinh thần, là sợi dây kết nối truyền thống và hiện đại, giúp dân tộc không chỉ vững vàng về kinh tế mà còn bền vững về tâm hồn. Giữ gìn bản sắc, xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong thời đại mới chính là cách để chúng ta đi xa mà không đánh mất mình, để phát triển mà vẫn giữ được hồn cốt dân tộc.
Là đại biểu Quốc hội, tôi cảm nhận rõ trách nhiệm thế hệ hôm nay: Phải kiến tạo thể chế vững mạnh, thúc đẩy giáo dục và khoa học, khơi dậy khát vọng sáng tạo, bảo đảm an sinh xã hội và tạo môi trường để mỗi người dân, nhất là người trẻ, có cơ hội đóng góp cho đất nước.
Lịch sử đã chứng minh, dân tộc ta chưa bao giờ bỏ lỡ thời cơ để thay đổi vận mệnh. Hôm nay, với khát vọng hùng cường, với trí tuệ Việt Nam, với sức mạnh của thế hệ trẻ, tôi tin chúng ta sẽ viết tiếp những trang sử vàng son - để 80 năm sau, con cháu chúng ta sẽ tự hào nhớ về thời khắc này như một vận hội lớn đã được thế hệ hôm nay biến thành hiện thực của một Việt Nam giàu mạnh, hạnh phúc, trường tồn.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Chung: Lan tỏa giá trị tốt đẹp, khích lệ tinh thần
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Chung.
Tôi có niềm tin với những thay đổi quyết liệt gần đây, đất nước đang sẵn sàng bước vào thời kỳ phát triển mới - nhanh - mạnh và vững bền. Ngay từ tháng 7/2025 đã có những quyết sách, quy định mới về thủ tục hành chính, về giáo dục, về tinh giản bộ máy…
Việt Nam là một dân tộc kiên cường, trải qua bao thiên tai, mất mát nhưng không gục ngã. Sau mỗi cuộc thiên tai là tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách lại trỗi dậy. Mỗi người đều hiểu “một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”, luôn hưởng ứng kêu gọi, vận động sự ủng hộ, đóng góp; xuất phát từ chính trái tim mỗi người, luôn ra sức hỗ trợ đồng bào mình vượt qua đau thương mất mát.
Để đất nước hội nhập, phát triển và vươn mình trong kỷ nguyên mới, mỗi công dân hãy làm tốt vai trò trách nhiệm. Với văn nghệ sĩ cũng vậy, ngoài vai trò công dân còn sứ mệnh và trách nhiệm nặng nề hơn - là sáng tạo. Làm sao để tác phẩm của mình tác động tích cực tới công chúng; lan toả những giá trị tốt đẹp cùng thông điệp ý nghĩa, khơi gợi, khích lệ mạnh mẽ tình yêu quê hương đất nước, tình yêu gia đình, gìn giữ môi trường, thái độ sống - văn hóa ứng xử…
Những tác phẩm giá trị chạm tới trái tim có sức mạnh hướng người khác tới những điều tốt đẹp. Đồng thời, tạo nên những động lực, sự hứng khởi để cho một ngày mới làm việc hăng say hơn, năng động hơn. Ngày nào cũng vậy, người nào cũng vậy thì đất nước sẽ phát triển mạnh mẽ, vững bền.
Đạo diễn Lương Đình Dũng: Muốn kéo lịch sử trở về trước mắt bằng điện ảnh
Đạo diễn Lương Đình Dũng.
Là người Việt Nam, ai cũng cảm nhận được sức mạnh dân tộc đang trỗi dậy. Và, “Tự hào” là cảm giác tôi đang thấy ở chính mình và trên những gương mặt của mọi thế hệ.
Đây là một cơ hội lớn để văn nghệ sĩ cùng đồng hành đóng góp vào vận hội quốc gia. Đây là thời điểm, không thể đợi và không phải là lúc khác, mỗi người đều tiến lên và làm một điều gì đó với tâm thế cống hiến - điều đó mới thực sự đáng trân trọng. Chúng ta có thể nhìn thấy một tương lai Việt Nam hùng mạnh chứ không phải mơ về tương lai, nó là hiện thực từ những đôi bàn tay lao động và khối óc thông minh của người Việt.
Ở khía cạnh cá nhân, tôi nên làm gì? Là một đạo diễn, tôi muốn góp phần vào điện ảnh Việt Nam, tôi muốn làm phim về lịch sử, muốn kéo lịch sử trở về trước mắt bằng điện ảnh một cách sinh động nhất để chúng ta có thể chạm tay vào những khoảnh khắc vĩ đại của dân tộc, để thế giới nhìn thấy cha ông ta - những người hùng đã vượt qua những cuộc chiến vệ quốc vĩ đại.
Điện ảnh hiện nay là một phương tiện ảnh hưởng rất lớn, nhiều quốc gia đang tập trung khai thác và sử dụng như một cách để quảng bá văn hóa, củng cố hình ảnh. Tuy nhiên, điện ảnh Việt vẫn còn quá nhiều khoảng trống, chưa khai thác hiệu quả các giá trị lịch sử. Nếu chúng ta làm tốt những bộ phim ngang tầm thế giới, để bất cứ ai khi nghĩ tới Việt Nam là nhớ tới lịch sử vĩ đại của một dân tộc. Trong kỷ nguyên vươn mình, điện ảnh cũng là một phương tiện mà người làm nghề cần ra sức cống hiến.
Họa sĩ Vũ Tuấn Việt: Nghệ sĩ phải nhập cuộc như một chứng nhân
Họa sĩ Vũ Tuấn Việt.
Là một nghệ sĩ trẻ, tôi luôn cảm thấy mình đang đứng giữa ngã ba lớn. Một bên là ký ức văn hóa, một bên là sự phát triển hiện đại. Một bên tôi được nuôi dưỡng bởi truyền thống, một bên là thế giới toàn cầu hóa với công nghệ bùng nổ.
Giữa ngã ba ấy, với một người làm nghệ thuật, tôi nghĩ đó là cơ hội để được thử thách và tự khẳng định mình. Vận hội dân tộc không chỉ nằm trong thành tựu vật chất, mà còn trong việc chúng ta có dám gìn giữ, kể lại và sáng tạo từ những gì thuộc về mình.
Tôi tin nghệ sĩ trẻ không thể chỉ đứng ngoài quan sát, mà phải nhập cuộc như một chứng nhân. Chúng tôi có lợi thế khi không bị trói buộc vào khuôn khổ cũ, lại có khả năng tiếp cận thế giới số, đối thoại đa chiều với bạn bè quốc tế. Nhưng chúng tôi cũng gánh nỗi bất an rằng liệu trong dòng chảy toàn cầu, tiếng nói của dân tộc mình, bản thân mình có bị hòa tan không? Câu hỏi ấy thôi thúc tôi sáng tác như một cách để khẳng định sự hiện diện của dân tộc, của cá nhân trong cuộc đối thoại với nhân loại.
Với tôi, vận hội quốc gia chính là khả năng tái sinh từ bên trong, biến ký ức thành chất liệu sáng tạo. Nghệ thuật của thế hệ trẻ không hứa hẹn đưa ra câu trả lời trọn vẹn, nhưng có thể mở ra những hình dung, những không gian để cộng đồng cùng chiêm nghiệm. Và đôi khi, chính khả năng tưởng tượng ấy lại là vận hội lớn nhất, vận hội để dân tộc không ngừng tái định nghĩa mình trong một thế giới đầy biến động.
Tổ quốc trong tôi từ mùa Thu ấy!
Tháng Chín à, là “mùa Thu xanh thắm/Mây nhởn nhơ bay.../Mây của ta, trời thắm của ta/Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa...”; lại một niềm hào sảng vang lên “Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam”, giữa mùa Thu 2025 này, ngày 2 tháng 9, vinh quang Quốc khánh!
Không hiếm người, đọc đúng từ Tổ quốc mà chẳng thấy Tổ quốc đâu. Vô vị trong lối hô khẩu hiệu. Với tôi, Tổ quốc bình dị mà!
Tổ quốc ở đâu? Tổ quốc kìa, trong giọt nước mắt mẹ từng rơi năm tháng đợi chờ. Giọt mồ hôi của mẹ từng đổ trên cánh đồng năm tấn... Trong hơi thuốc lào, cày lúc giải lao, khê vì thiếu lửa. Là chiều, bọn trẻ chơi trò chồng hoa chồng nụ. Là cánh diều đêm ngày gió sương vi vút hồn quê. Tổ quốc nằm trong từng câu đồng dao, giản đơn là bông trang, bông súng, bông sen.
Ngọn khói lam chiều nơi quê ấm dạ. Ngày em sang sông mẹ dặn đôi lời. Tổ quốc gần như hơi thở của cha, của mẹ. Trong tấm khăn gói thầm kỷ niệm ngày tiễn đưa nhau, bên bến sông, buổi anh đi đánh giặc. Tổ quốc một thời khói lửa. Thư vắng, lòng vẫn vững tin một ngày Thống nhất. Tổ quốc lại như trăng rằm!
Đi qua năm tháng thật dài. Chứng kiến và đón nhận. Niềm vui và nỗi buồn. Cái còn và cái mất. Son sắt và sự phản trắc... Chân lý thật như nhìn thấy rõ rành rành, như sờ thấy, như nếm được. Có con chim nào mà không yêu tổ? Chạm vào tổ nó thì nó mổ, nó thét... dữ dội. Ta có nhà thì ta yêu nhà. Nơi ta gọi là tổ ấm.
Xin đừng chạm đến tổ ấm của mỗi gia đình! Tổ quốc là một ngôi nhà lớn, cực lớn, của 54 dân tộc anh em. Nơi ta nương náu yêu! Kìa, mái đình cong mang hình trăng đầu tháng và cũng là hình ngọn lửa luôn thắp bên mình. Ta nhận ra mình cùng chung ngọn lửa và cả vầng trăng khuyết để tròn. Ngọn lửa khắc trên mặt trống đồng là Mặt trời mang đầy ý niệm thiêng liêng.
Cho đàn chim Lạc dẫu ngàn ngàn năm bay về không lạc. Cho mình luôn biết ơn mẹ Âu Cơ về cái Bọc - trăm - trứng và linh thiêng Đất Tổ vua Hùng. Về Biển xanh nơi cha là Đảo thiêng mang hình trái dưa và trầm tích móng Rồng. Non xanh trùng trùng, biển Đông mênh mông trước mặt và cánh đồng bao la cánh cò, có từ ngàn ngàn đời... là muôn năm Tổ quốc!
Nước non mình, trên bốn ngàn năm hết thác lại ghềnh, là biết bao khoảng lặng, là biết bao nốt trầm...! Mẹ ơi! Mẹ đau ở khoảng lặng nào? Mẹ ơi! Mẹ đã từng khóc ở nốt trầm nào? Vì sao? Đêm qua, con được nghe, bà dạy em vài điệu dân ca, câu nhớ câu quên, sao mà nắng hồng, sao mà trăng sáng. Con đom đóm ngõ quê lập lòe cũng đã làm yêu lòng bạn! Chiều ơ chiều... sao lại để chiều ơ chiều... lại ngân lên câu hát nghẹn ngào thế, tình thế, nồng nàn thế! Và, cả trắc ẩn!
Trên bản tranh khắc gỗ làng Đông Hồ (Thuận Thành, Bắc Ninh), hay tranh Hàng Trống (Hà Nội), từng đường nét dân gian, ta nhận ra Tổ quốc ở đâu mà soi rõ lòng ta thật giả, xuyên suốt đến giờ. Tổ quốc lại hồn nhiên trong truyện của làng Cười, lượm lặt của những nghệ sĩ tay bùn chân lấm quê kiểng.
Nhận ra Tổ quốc trong cách đặt tên núi, tên sông, tên làng, tên đất… Một dải Đất - Nước, kìa Hạ Long, kìa Thăng Long, kìa Cửu Long. Tổ quốc thế chân vạc, vững âu vàng: Ba Vì, Tam Đảo. Những gì găm giữ trong một dòng Nhật Lệ, hay bí ẩn đền đài mà Hương giang trầm lặng. Tôi yêu một Hiền Lương cồn cào những câu hò đứt ruột cánh chim! Những triền sông, nẻo sông là phù sa, là ắp đầy trầm tích, vỉa ánh những địa tầng văn hóa.
Câu quan họ ngọt ngào bên dòng sông Cầu lơ thơ nước chảy. Con sông Thương đôi dòng để nhớ để thương. Câu Xoan trên ngọn nguồn sông Lô. Câu Dô tá dô huầy... độc hành sông Mã. Sông Lam rồi sông La là ấm bao điệu hò ví dặm. Dịu dàng sâu lắng trầm tư, điệu hò nam ai nam bình, trên dòng Hương giang.
Và những điệu chòi gió cát khắp vùng Nam Trung Bộ. Một vùng cải lương xứ Đồng Tháp mênh mang tầm mắt. Tổ quốc lại dịu dàng, suốt từ Bắc tới Nam, trong những câu ca, mở trăm làn điệu, lưu giữ và lan tỏa mà đượm đượm tình cây cội!
Tổ quốc nhìn từ đâu? Nhìn từ bóng tre làng đuổi quỷ, còn trong tích truyện! Nhìn từ nơi đã sinh ra sóng! Nơi lá rừng và hòn sỏi cọ trong suối mát! Giữ chủ quyền từ tay Tổ tiên! Tổ quốc trông theo từng bước đi và trong từng nghĩa cử, như gió lại như mưa...! Gần gũi trong sự thành thật.
Minh họa/INT
Thành thật cả khi máu đổ! Những ngày, gọi là chạp, từ nhỏ đến giờ, tôi từng được theo bà, ra nơi yên nghỉ cuối cùng, thắp hương cho tổ tiên, cho ông, cho cha, cho mẹ, cho chú... Những người bình dị mà đầy khát vọng.
Họ nằm xuống cũng bình dị. Tổ quốc lại bình dị về bên họ. Vì sao? Vì họ là Nhân dân! Thế thôi! Tôi lại theo ra nghĩa trang, nơi an nghỉ của những anh hùng liệt sĩ. Nén hương đỏ, đỏ như ngôi sao trên bia mộ sáng kia. Tổ quốc theo bà làm cuộc tri ân. Bền vững!
Một ngày đến trường, Tổ quốc về đậu trên lời phê của thày, của cô, trong khung bài kiểm tra 15 phút, một tiết... của học trò. Tổ quốc lớn lên từng ngày, theo từng bước chân tung tăng của trẻ, lớp măng non ấy, chủ nhân tương lai của một dân tộc.
Lịch sử trao lại cho 54 dân tộc anh em gắn bó trên dải đất hình chữ S. “Tay cân lại của cha ông từng nắm đất/Và giữ gìn bằng chính máu xương ta”. Đó là Tổ quốc yêu dấu của tôi. Tổ quốc dạy cho mình biết nhớ.
Nhớ càng dày là càng biết thương nhau! Như cha đã trao cho con cái khí phách và cái bí quyết làm Người. Cái khí phách và cái bí quyết của Người biết giữ lửa và biết truyền lửa bền vững đời đời! Vậy nên, Tổ quốc trong tôi bình dị mà. Dịu dàng mà. Êm đềm mà... Phải không? Tin chưa? Tổ quốc, giờ đọc lên mà ấm dạ!
Giờ đây, tôi nghe gió thổi từ mùa Thu ấy, mùa Thu mà hào khí lại bắt đầu từ một “Nam quốc sơn hà”, năm 981, sang sảng trong một “Đại cáo bình Ngô”, năm 1428 và rực rỡ rừng cờ, thổi bùng lên niềm khao khát cháy bỏng của cả một dân tộc, trong bản “Tuyên ngôn độc lập”, ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đọc tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vậy mà đã 80 năm trường. “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa Xuân”!
Tháng Chín à, vẫn luôn là “mùa Thu xanh thắm/ Mây nhởn nhơ bay.../Mây của ta, trời thắm của ta/ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa...”. Dẫu rằng, phía trước, vẫn là phía trước đầy thách thức! “Lửa thử vàng gian nan thử sức”, bỗng dưng trong lòng ta lại vang lên, một niềm hào sảng “Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam”, giữa mùa Thu 2025 này, âm vang Quốc khánh!
Tết Độc lập trên quê hương Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Đây là dịp để con cháu làm ăn xa quê trở về báo công, báo hiếu với tổ tiên và tham gia các lễ hội văn hóa đặc sắc của quê hương.
Tưởng nhớ vị tướng của nhân dân
Lệ Thủy, quê hương Đại tướng Võ Nguyên Giáp được xem là nơi đón Tết Độc lập lớn nhất khu vực. Bởi vào dịp này, cả vùng trở nên náo nhiệt với hàng loạt hoạt động văn hóa, thể thao, đặc biệt là đua thuyền truyền thống, “món ăn tinh thần” đã ngấm sâu trong đời sống người dân nơi đây.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ra và lớn lên tại làng An Xá, bên dòng sông Kiến Giang. Những ngày này, người dân và du khách khắp nơi trở về Khu lưu niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp - nơi lưu giữ ngôi nhà tuổi thơ của ông - để tưởng nhớ vị tướng của nhân dân.
Tháng 12/2024, tỉnh Quảng Bình (cũ) đưa vào hoạt động Nhà tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Công trình thể hiện tình cảm, lòng biết ơn sâu nặng của Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân Lệ Thủy đối với những cống hiến to lớn của Đại tướng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước.
Công trình là “địa chỉ đỏ” quan trọng, nơi giáo dục truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước, bồi đắp niềm tự hào của nhân dân Lệ Thủy nói riêng và cả nước nói chung. Nhà tưởng niệm được xây dựng trên phần đất liền kề với Nhà lưu niệm Đại tướng, thiết kế theo kiến trúc Việt cổ với nhà gỗ ba gian truyền thống.
Chị Võ Thị Hải Yến - viên chức Trung tâm Văn hóa, Thể thao và Truyền thông Lệ Thủy, cho biết: Thời gian qua, Khu lưu niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đón đông đảo du khách và người dân đến tưởng niệm, tri ân vị tướng của dân tộc.
Lễ hội đua thuyền trên dòng Kiến Giang thu hút sự cổ vũ của hàng nghìn người dân.
“Đi xa càng muốn về...”
Người dân vùng Lệ Thủy luôn xem ngày Tết Độc lập 2/9 là cái Tết “lớn nhất” trong năm. Lễ hội đua thuyền truyền thống trên quê hương Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng mang đậm bản sắc, nức tiếng gần xa. Sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhiều lần về thăm quê nhà Lệ Thủy và chứng kiến lễ hội đua thuyền trên sông Kiến Giang.
Trong tâm thức mỗi người dân Lệ Thủy, lễ hội đua thuyền mừng Tết Độc lập là niềm tự hào, là dịp không thể bỏ lỡ. Sau thời gian dài làm ăn xa quê, anh Trần Văn Khánh (xã Lệ Thủy) đưa vợ và con về thăm Khu lưu niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Gia đình anh sinh sống tại TPHCM. Năm nào anh cũng thu xếp công việc để đưa gia đình về thăm quê, đặc biệt vào dịp Tết Độc lập. Năm nay, anh đưa gia đình về sớm để đoàn tụ cùng người thân và tìm hiểu thêm về văn hóa quê hương.
Ông Võ Đại Hàm (89 tuổi, trú tại thôn An Xá, Lệ Thủy) cho hay: Đây là lễ hội lớn nhất trong năm, được người dân mong chờ, háo hức. Con cháu xa quê đều hướng về cội nguồn, tìm về chung vui trong ngày hội đua thuyền. Dịp Tết Độc lập, người dân có thể vui hội đến nửa tháng. Con em xa quê vì công việc có thể không về được dịp Tết Nguyên đán, nhưng với Tết Độc lập, hầu hết đều sắp xếp để về tham dự hội làng.
Theo các cụ cao niên ở Lệ Thủy, xưa kia người dân tổ chức lễ hội để cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Từ sau năm 1945, lễ hội gắn liền với ngày Quốc khánh. Từ giữa tháng 8, trai tráng trong làng được tuyển chọn kỹ càng để tập luyện. Dưới sông, tiếng mõ vang vọng thôi thúc, khiến làng quê náo nức, rộn rã. Nhiều người sẵn sàng gác công việc sang một bên để cổ vũ cho đội bơi của làng.
Từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9, các vòng đua diễn ra, thu hút đông đảo người dân đổ ra bờ Kiến Giang cổ vũ. Đặc biệt, ngày 2/9 - ngày chung kết, từng dòng người ken đặc hai bên bờ sông, reo hò tiếp lửa cho đội thuyền quê mình. Dịp này, khắp nơi trống dong, cờ mở, đường làng ngõ xóm được quét dọn tinh tươm; trong mỗi nhà, mâm cúng ông bà tổ tiên được dâng lên, ghi nhớ công lao của những người đã ngã xuống cho mùa Tết Độc lập hôm nay.
Gia đình anh Trần Văn Khánh đến tri ân và tưởng niệm Đại tướng.
Quảng bá tiềm năng địa phương
Kiến Giang, dòng sông hiền hòa, lưu giữ nhiều nét văn hóa độc đáo của người dân Lệ Thủy. Lễ hội đua thuyền trên sông là một trong những lễ hội đặc sắc nhất dịp Tết Độc lập, được người dân chuẩn bị công phu để gìn giữ bản sắc riêng có.
Hướng tới kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, UBND tỉnh Quảng Trị đã ban hành kế hoạch tổ chức Lễ hội Đua, bơi thuyền truyền thống trên sông Kiến Giang năm 2025 tại xã Lệ Thủy. Theo kế hoạch, thuyền nữ tranh tài ở cự ly 18km; thuyền nam thi đấu hai hạng A, B với cự ly 24km.
Dự kiến có hơn 30 thuyền tham gia, trong đó 11 thuyền nữ và 20 thuyền nam đến từ các làng ven sông như An Xá, Tuy Lộc, Đại Phong, Lộc Hạ, Lộc Thượng, Phú Thọ, Thượng Giang, Hoàng Giang, Xuân Hồi, Thạch Bàn, Quy Hậu… Ngoài ra còn có thuyền từ các xã Tân Mỹ, Cam Hồng, Sen Ngư, Trường Phú, Lệ Ninh, Kim Ngân…
Ông Lê Phú Sơn - Phó Giám đốc Sở VH,TT&DL tỉnh Quảng Trị, cho biết: Từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, lễ hội đua thuyền trên sông Kiến Giang đã trở thành hoạt động quan trọng mừng Tết Độc lập.
Năm 2019, Bộ VH,TT&DL công nhận Lễ hội đua, bơi thuyền trên sông Kiến Giang là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Để tổ chức thành công, UBND tỉnh Quảng Trị giao Sở VH,TT&DL làm cơ quan thường trực, phối hợp cùng các đơn vị, địa phương liên quan điều hành các hoạt động lễ hội.
Nhà lưu niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở Lệ Thủy. Ảnh: Đăng Đức
“Lễ hội đua thuyền truyền thống trên sông Kiến Giang là nét đẹp văn hóa độc đáo của người dân huyện Lệ Thủy. Đây không chỉ là hoạt động văn hóa - thể thao, mà còn là dịp quảng bá hình ảnh, con người, điểm đến du lịch của địa phương”, ông Sơn nhấn mạnh và cho biết, chính quyền xã Lệ Thủy cũng ban hành kế hoạch tổ chức các hoạt động chào mừng 80 năm Cách mạng Tháng Tám, phối hợp tổ chức lễ hội đua thuyền và triển khai công tác chuẩn bị.
Đại diện Phòng Văn hóa - Thông tin xã Lệ Thủy cho biết: Thông qua các hoạt động này, địa phương muốn ôn lại truyền thống lịch sử, giáo dục đạo đức cách mạng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân; đồng thời quảng bá, giới thiệu với du khách trong nước và quốc tế về vùng đất, con người, những di sản văn hóa độc đáo cùng tiềm năng, thế mạnh của địa phương.
'Tiến quân ca' - Chứng nhân thầm lặng cho lý tưởng
Nhưng ít ai biết rằng, bản Quốc ca ấy được viết nên bởi một chàng trai khi đó mới ngoài đôi mươi.
Bài hát được viết trong một căn gác nhỏ ở số 175 phố Mông Răng, nay là 45 phố Nguyễn Thượng Hiền (Hà Nội) - nơi được dùng làm cơ sở hoạt động bí mật trong những năm tháng nước sôi lửa bỏng. Và đằng sau mỗi nốt nhạc, ca từ là câu chuyện của niềm tin, lý tưởng; của những con người sống và viết bằng trọn vẹn trái tim hiến dâng cho Tổ quốc.
Gần một năm sau, ngày 17/8/1945, bài hát ấy được vang lên giữa Quảng trường Ba Đình hừng hực khí thế cách mạng, và chính thức trở thành Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ.
“Bố tôi đã sống và viết như một chiến sĩ”
Nhân hơn 80 năm ngày bản “Tiến quân ca” ra đời (1944 - 2025) và 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1945 - 2025), chúng tôi có dịp trò chuyện cùng họa sĩ Văn Thao - con trai cố nhạc sĩ Văn Cao để lắng nghe những câu chuyện chưa từng được kể, những góc khuất sau ánh hào quang của một kiệt tác âm nhạc đã đi cùng dân tộc suốt gần một thế kỷ.
Với họa sĩ Văn Thao, “Tiến quân ca” không chỉ là bản hùng ca của dân tộc, mà còn là một phần ký ức gia đình, là chứng nhân thầm lặng cho lý tưởng, sự lựa chọn và những hy sinh của người cha nghệ sĩ.
Họa sĩ Văn Thao mở đầu câu chuyện bằng dòng hồi tưởng: “Bố tôi không chỉ là nhạc sĩ. Trong tâm thế của ông lúc ấy, ông là một chiến sĩ - một người chọn cầm bút thay vì cầm súng. Năm 1944, bố thoát ly khỏi gia đình ở Hải Phòng, theo lời giới thiệu của ông Vũ Quý - cán bộ Việt Minh - lên Hà Nội để hoạt động cách mạng, gia nhập tổ chức Thanh niên Cứu quốc. Tại đây, ông được giác ngộ và kết nối với phong trào thanh niên yêu nước. Cùng với những người bạn như nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi, Đỗ Nhuận, bố tôi tham gia phong trào từ những năm 1942 - 1943”.
Cũng chính trong lần gặp gỡ đó, cuộc đời nghệ thuật của Văn Cao rẽ sang hướng hoàn toàn mới. Ông được giao nhiệm vụ hoạt động bí mật trong Đảng Dân chủ và tham gia xuất bản báo Độc Lập cùng với Nguyễn Đình Thi. Trong bối cảnh ấy, Văn Cao đảm nhận trọng trách đặc biệt: Sáng tác một bài hát cách mạng phục vụ Mặt trận Việt Minh. Đây là bước ngoặt lớn đối với ông - một nghệ sĩ vốn quen thuộc với thơ ca, hội họa và văn chương, nhưng chưa từng tham gia hoạt động cách mạng chính thức.
Trước đó, Văn Cao đã có nhiều tác phẩm được đăng trên các báo nổi tiếng như Tiểu Thuyết Thứ Bảy, nhưng vẫn chưa thể sống bằng nghề. Ông từng sáng tác những ca khúc trữ tình sâu lắng như “Bến xuân”, “Buồn tàn thu”… Tuy nhiên, từ khi gia nhập phong trào cách mạng, Văn Cao đã tìm thấy cho âm nhạc của mình một sứ mệnh mới: Cổ vũ tinh thần dân tộc, truyền lửa cho quần chúng nhân dân trong cuộc khát khao tự do.
Trước khi sáng tác “Tiến quân ca”, nhạc sĩ Văn Cao đã có một số bài hát kêu gọi lòng yêu nước dành cho thanh niên Hải Phòng, lấy cảm hứng từ những chiến công hào hùng của cha ông. Những ca khúc như “Hò kéo pháo” trên sông Bạch Đằng, “Gò Đống Đa” hay “Thăng Long hành khúc ca” đều mang tinh thần hành khúc cổ vũ ý chí chiến đấu và lòng tự hào dân tộc.
Trong ký ức của họa sĩ Văn Thao, cha ông từng kể, căn phòng ở 45 Nguyễn Thượng Hiền là nơi cha ông sống cùng với người bạn - nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Căn gác nhỏ, vắng vẻ, với chiếc bàn gỗ, ngọn đèn dầu và một chiếc đàn piano cũ. Chính nơi đó, “Tiến quân ca” đã ra đời.
Bản thảo ca khúc “Tiến quân ca”. Ảnh: NVCC.
“Bố tôi kể, bố viết một mạch bài hát ấy chỉ trong một đêm. Có thể nói, tinh thần của thời đại đã thôi thúc ông - một người nghệ sĩ trẻ, sống giữa những ngày Hà Nội âm ỉ ngọn lửa cách mạng để viết ra ca từ và giai điệu hào sảng ấy”, họa sĩ Văn Thao cho biết.
Bản viết tay đầu tiên được ông chép lại gửi cho ông Vũ Quý. Và rồi từ đó, “Tiến quân ca” được phổ biến trong nội bộ Thanh niên Cứu quốc, được hát tại các cuộc mít tinh bí mật. Cho đến khi thời cơ Cách mạng Tháng Tám đến gần, bài hát được in trên báo “Độc lập”, được phổ biến rộng rãi và vang lên hùng tráng tại Quảng trường Ba Đình - chỉ vài ngày trước khi bản “Tuyên ngôn độc lập” ra đời.
Họa sĩ Văn Thao nhớ lại: “Bố tôi từng nói, khi viết ‘Tiến quân ca’, ông không hề nghĩ đó sẽ là Quốc ca. Bố chỉ nghĩ, mình cần một bài hát để khích lệ tinh thần chiến đấu, để nhân dân hát vang khi đứng lên. Chính ông cũng không thể ngờ rằng ca khúc của mình sẽ lan rộng và được đón nhận như vậy. Có lẽ, vì bài hát ấy đã đúng thời điểm, đúng cảm xúc của dân tộc, nên nó được lựa chọn một cách tự nhiên.
Gia đình tôi vẫn còn lưu bản thảo gốc của ‘Tiến quân ca’. Đó là một tờ giấy đã ố vàng, những nét bút mực nhòe đi theo thời gian. Nhưng từng con chữ, từng nốt nhạc vẫn còn vẹn nguyên cảm xúc”.
Theo lời con trai cố nhạc sĩ, quá trình in ấn “Tiến quân ca” gặp nhiều khó khăn do thiếu điều kiện và phương tiện. Lúc đó không có máy in, chỉ dùng phương pháp in lito thủ công: Viết tay chữ ngược lên bản đá rồi mới in ra. Người thợ in quen làm báo, truyền đơn chứ không biết in nhạc, nên nhạc sĩ Văn Cao phải được đưa đến một cơ sở in bí mật tại làng Bát Tràng để trực tiếp phụ trách việc in.
Cơ sở in rất bí mật, nằm trên một căn gác nhỏ, nơi ông phải ăn ở kín đáo, không được xuống gác. Ông được một thợ in dạy cách viết chữ ngược và cùng in bản “Tiến quân ca” trên báo Độc Lập - tờ báo của Đảng Dân chủ thuộc Mặt trận Việt Minh. Sau gần một tháng, bài hát được phát hành chính thức trên số báo bí mật này, mở đầu cho sứ mệnh âm nhạc cách mạng của ông.
Điều đặc biệt, theo họa sĩ Văn Thao, là khi Quốc hội họp lần đầu tiên vào tháng 11/1946 để chọn Quốc ca, “Tiến quân ca” được đa số đại biểu tán thành. Và từ đó, bản nhạc của một nghệ sĩ trẻ đã trở thành biểu tượng quốc gia. Buổi công diễn đầu tiên của “Tiến quân ca” diễn ra trong một đêm mít tinh tại Nhà hát Lớn Hà Nội - vốn do Việt Minh tổ chức dưới danh nghĩa tổ chức công khai. Khi ấy, bản nhạc được in trên giấy, phát cho người tham gia để cùng hát theo.
Ông Thao bồi hồi kể lại: “Không khí hôm đó vô cùng hào hùng. Bố tôi đứng trên sân khấu, trực tiếp chỉ huy dàn đồng ca. Lần đầu tiên, hàng trăm người hát vang bài ca ‘Tiến lên! Cùng tiến lên! Nước non Việt Nam ta vững bền...’ - âm vang ấy khiến nhiều người rơi nước mắt”.
Sự kiện ấy được coi là cột mốc đưa “Tiến quân ca” từ một bản nhạc cách mạng trở thành tiếng nói đại diện cho khát vọng độc lập của cả dân tộc.
Họa sĩ Văn Thao - con trai cố nhạc sĩ Văn Cao. Ảnh: Hà Trang.
Khúc tráng ca bất tử với thời gian
Một trong những điều khiến nhiều người xúc động sâu sắc chính là tâm thế của nhạc sĩ Văn Cao khi “Tiến quân ca” trở thành Quốc ca. Ngày 17/81945, bài hát vang lên trang nghiêm tại Quảng trường Nhà hát Lớn trong lễ mít tinh mừng chính quyền cách mạng giành thắng lợi. Chỉ hai tuần sau đó, ngày 2/9/1945, giữa Quảng trường Ba Đình, “Tiến quân ca” được chính thức chọn làm nhạc nền mở đầu cho lễ Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì.
Họa sĩ Văn Thao, con trai của nhạc sĩ, xúc động kể lại: “Sau sự kiện đó, bố tôi lặng lẽ gạch tên mình khỏi phần tác giả. Ông nói rằng, đây không còn là bài hát của riêng ông nữa, mà là của toàn dân tộc. Từ nay, bài hát sẽ sống một cuộc đời khác, không cần nhắc đến tên ông nữa.
Trong suốt nhiều năm sau, cố nhạc sĩ Văn Cao luôn sống giản dị, không hề đòi hỏi vinh danh cá nhân, kể cả khi cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Họa sĩ Văn Thao tự hào chia sẻ: “Bố tôi chưa bao giờ dùng ‘Quốc ca’ để tranh quyền lợi hay danh tiếng. Điều ông trân trọng nhất là bài hát được nhân dân đón nhận và vẫn vang lên mỗi ngày cho đến tận hôm nay”.
Sau năm 1945, “Tiến quân ca” được công nhận chính thức là Quốc ca trong Hiến pháp 1946. Nhưng với Văn Cao, giá trị của bài hát không nằm ở danh hiệu hay giải thưởng. Họa sĩ Văn Thao nhớ lại: “Bố tôi từng nói, niềm tự hào lớn nhất không phải là các danh hiệu mà là khi nghe các em học sinh hát Quốc ca một cách hồn nhiên trong sân trường, hay nhìn thấy người lính hát vang trong lễ xuất quân”.
Hơn nửa thế kỷ sau ngày kết thúc kháng chiến, nhạc sĩ Văn Cao vẫn âm thầm theo dõi hành trình của bài hát. Ông từng chỉnh sửa một vài từ trong lời ca, không phải để thay đổi tinh thần, mà nhằm làm cho lời ca phù hợp hơn với thời đại. Nhưng tinh thần bất khuất, niềm tin vào chiến thắng và ý chí quật cường trong “Tiến quân ca” vẫn nguyên vẹn như ngày đầu ông sáng tác vào năm 1944.
Họa sĩ Văn Thao kể lại: “Bố tôi không hề nhận một đồng nhuận bút nào từ ‘Tiến quân ca’. Thậm chí sau này, khi có người đề nghị trả tiền bản quyền, ông vẫn kiên quyết từ chối. Ông nói rằng: “‘Tiến quân ca’ không còn là của tôi nữa, nó đã trở thành của Tổ quốc rồi”.
Trong một cuộc trò chuyện cuối cùng trước khi qua đời, cố nhạc sĩ Văn Cao từng chia sẻ: “Tôi chỉ mong mỗi lần ‘Tiến quân ca’ vang lên, người Việt sẽ thấy tự hào vì đất nước này đã trải qua biết bao mất mát, để có ngày hôm nay. Bài hát ấy không phải của tôi, mà là của tất cả những người đã sống, đã chiến đấu và đã hy sinh cho Tổ quốc”.
Nhắc lại câu nói đó, họa sĩ Văn Thao nghẹn ngào: “Bố tôi đã gửi cả tuổi trẻ, trái tim và lý tưởng vào bài hát ấy. Và tôi tin, ‘Tiến quân ca’ sẽ còn tiếp tục sống mãi, bởi nó mang trong mình linh hồn của một dân tộc không bao giờ khuất phục”.
Chính tấm lòng vì đất nước ấy đã khiến nhạc sĩ Văn Cao được ghi nhận và trân trọng sâu sắc. Trong lễ trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh năm 1996, sau khi ông đã qua đời, lời tri ân dành cho ông không chỉ đến từ giới nghệ thuật mà còn từ mọi tầng lớp nhân dân.
80 năm qua, mỗi lần “Tiến quân ca” vang lên trong những lễ chào cờ trang nghiêm, ngày Quốc khánh hay những thời khắc trọng đại của đất nước, giai điệu ấy vẫn luôn mang theo một sức sống và xúc cảm riêng biệt, chạm sâu vào trái tim mỗi người Việt. Với họa sĩ Văn Thao, đó không chỉ là âm nhạc, mà là ký ức về người cha đã khuất.
Trong kho tàng ca khúc cách mạng đồ sộ, bài hát vẫn giữ vị trí đặc biệt không thể thay thế. Không chỉ vì đây là Quốc ca, mà còn bởi bài hát được sinh ra trong khoảnh khắc dân tộc đứng trước ngưỡng cửa đổi thay, từ trái tim của một nghệ sĩ chân chính chọn sống vì lý tưởng. Dù ra đời trong bối cảnh đất nước đầy thử thách và biến động, bài hát đã vượt lên trên mọi thăng trầm của lịch sử để trở thành biểu tượng tinh thần đoàn kết và ý chí kiên cường, vang vọng mãi trong tâm thức dân tộc.
Café ngày mới: Độc lập không chỉ là điểm đến!
“Những năm tháng không thể nào quên” - tên một tác phẩm hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp do nhà văn Hữu Mai chắp bút - có một chi tiết đặc biệt, lắng sâu giữa dòng tự sự về những ngày đầu lập nước. Đó là giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên lễ đài Ba Đình sáng ngày 2/9/1945, giữa bản “Tuyên ngôn Độc lập” đang được đọc vang vọng, bỗng dừng lại, khẽ hỏi: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?”.
Một triệu con người phía dưới đã đồng thanh đáp: “Có!”. Đại tướng gọi khoảnh khắc ấy là sự hòa nhập tuyệt đối giữa một lãnh tụ với nhân dân, giữa cá nhân và dân tộc, giữa lý tưởng và trái tim.
Lời đồng thanh “Có!” ấy vang lên không chỉ để trả lời một câu hỏi, mà là một sự xác tín thiêng liêng, là lời thề âm vang từ cõi lòng muôn người: Tổ quốc đã độc lập và chúng ta sẽ cùng nhau gìn giữ điều ấy bằng tất cả những gì mình có.
Kể từ ngày thu ấy đến nay, nước Việt Nam độc lập đã đi qua hành trình 80 năm. Một hành trình không trải thảm, mà đầy chông gai, thử thách. Từ lời đáp đồng lòng “Có!” đầu tiên, dân tộc Việt Nam bước vào cuộc chiến dài hơn ba thập kỷ để bảo vệ nền độc lập ấy. Những năm kháng chiến là chuỗi ngày của máu và nước mắt: Từ chiến khu Việt Bắc đến chiến hào Điện Biên, từ vành đai thép Sài Gòn đến chiến trường Trường Sơn.
Mỗi bước đi của đất nước đều có bóng dáng của những người đã ngã xuống. “Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại”, nơi “gót chân trần son sắt” của bao thế hệ đã in dấu lên từng mảnh đất.
Có những người “đã sống và chết, giản dị và bình tâm, không ai nhớ mặt đặt tên”, nhưng họ “làm nên Đất Nước” bằng chính sự hi sinh lặng lẽ của mình. Có lẽ vì vậy, ngày Quốc khánh không chỉ là dịp mừng vui, mà luôn gợi lên những hồi tưởng đầy xúc động và biết ơn.
Nhưng độc lập không đến rồi ở lại mãi. Nó không chỉ là một đích đến mà ta có thể dừng chân, nghỉ ngơi. Ngược lại, độc lập chỉ là khởi đầu - một nền tảng để xây dựng những mục tiêu lớn hơn: Phồn vinh, công bằng, tự do thực chất, và phẩm giá con người. Nếu ta chỉ dừng lại ở niềm tự hào của một ngày tháng Tám năm xưa, thì chính niềm tự hào đó sẽ trở thành lực cản.
Vì vậy, dịp 2/9 năm nay - tròn 80 năm kể từ ngày bản “Tuyên ngôn độc lập” vang lên ở Ba Đình - cũng là lúc để nhìn lại chúng ta đã đi đến đâu từ điểm khởi đầu ấy? Và chặng đường phía trước còn cần gì để tiến xa hơn?
Không thể phủ nhận những thành tựu mà đất nước đã đạt được sau tám thập kỷ. Từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, kiệt quệ sau chiến tranh, Việt Nam đã vươn lên thành một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh, năng động, có vị thế địa chính trị ngày càng đáng kể trong khu vực.
Tỷ lệ đói nghèo giảm mạnh, đời sống nhân dân ngày càng cải thiện. Các thành phố lớn sôi động, nhịp sống trẻ trung, sáng tạo. Những công trình hạ tầng hiện đại dần mọc lên không chỉ ở đô thị mà cả vùng sâu, vùng xa. Chúng ta đã từng bước bước qua bóng tối chiến tranh để nhìn thấy ánh sáng của phát triển.
Tuy nhiên, như một quy luật tự nhiên, càng trưởng thành, đất nước càng đối diện với những vấn đề phức tạp hơn. Khoảng cách giàu nghèo, bất công xã hội, khủng hoảng niềm tin vào một số thiết chế, hay những biểu hiện nhạt dần của tinh thần công dân - đó không chỉ là những “lỗi nhỏ” trong quá trình phát triển, mà là những cảnh báo cần lắng nghe.
Hậu quả của chiến tranh không chỉ là những hố bom chưa lấp, mà là những vết thương kéo dài trong tâm thức cộng đồng, trong giáo dục, trong tâm lý thế hệ trẻ - những người sinh ra sau chiến tranh nhưng không được tiếp cận đầy đủ với giá trị lịch sử.
Minh họa/INT.
Chính vì thế, để tiếp tục vươn lên, chúng ta phải trung thực với mình hơn khi nhìn về quá khứ, phải nghiêm khắc với mình hơn khi đánh giá hiện tại, và dũng cảm hơn khi vẽ ra con đường tương lai. Độc lập không chỉ là “thoát khỏi ách đô hộ”, mà là dám sống có trách nhiệm, biết lắng nghe lẫn nhau, và biết xây dựng một cộng đồng không ai bị bỏ lại phía sau.
Thế hệ đi trước đã hoàn thành lời thề “giành lấy độc lập” bằng mồ hôi và máu. Thế hệ hôm nay cần hoàn thành phần việc khó khăn không kém: “Làm cho đất nước mạnh giàu, dân chủ, văn minh” bằng trí tuệ, sự liêm chính và lòng nhân ái.
Nhưng điều đó sẽ không thể thực hiện được nếu ta sống trong ảo tưởng rằng, độc lập là đích đến cuối cùng. Bởi sự dừng lại, nhất là trong một thế giới chuyển động không ngừng sẽ khiến ta tụt hậu, không chỉ về kinh tế, mà cả về văn hóa, đạo lý và ý thức cộng đồng.
80 năm nhìn lại, đất nước này là kết quả của những con người bình thường đã sống một cách phi thường. Những người lính đã nằm lại ở Trường Sơn. Những bà mẹ lặng lẽ ôm khung ảnh con. Những thầy cô cõng chữ lên non.
Những kỹ sư trẻ đang ngày đêm giữ gìn chủ quyền số. Những người nông dân không có tên trong sử sách nhưng kiên cường nuôi đất, giữ làng. Họ là hiện thân cho tinh thần: Độc lập không phải món quà có sẵn, mà là công trình đang được dựng xây.
Trên Quảng trường Ba Đình hôm nay, những hàng cây vẫn đứng sừng sững, như những nhân chứng lặng thầm. Chúng đã sống qua bom đạn, sống qua những mùa mưa, mùa nắng, sống cùng lịch sử. Và chúng vẫn vươn lên, xanh thẳm. Như đất nước này - không ngừng vươn mình. Như những thế hệ Việt Nam - tiếp nối nhau viết tiếp lời thề độc lập năm xưa bằng một thực tại sống động và nhân bản.
Câu hỏi “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?” của Bác Hồ, sau 80 năm, vẫn là một lời nhắc nhẹ nhưng thấm sâu: Rằng tự do, dân chủ, văn minh không tự nhiên có. Chúng chỉ đến khi mọi người dân - từ người lãnh đạo đến người bình thường - cùng lắng nghe, cùng trả lời bằng hành động.
Độc lập, vì vậy, không chỉ là điểm đến. Độc lập là quyền được tiếp tục hành trình. Là trách nhiệm gìn giữ, bồi đắp. Là cơ hội để viết tiếp những chương mới - không phải bằng máu như cha ông, mà bằng trí tuệ, công lý và lòng yêu nước tỉnh táo.
Phản ứng gây chú ý của Hòa Minzy khi bị so sánh với Mỹ Tâm
Trong không khí cả nước hướng về Quảng trường Ba Đình, nơi diễn ra chương trình đặc biệt chào mừng Đại lễ A80, sự góp mặt của hai giọng ca nổi tiếng là Mỹ Tâm và Hòa Minzy đã nhanh chóng thu hút sự chú ý của công chúng.
Tuy nhiên, bên cạnh niềm háo hức, trên mạng xã hội cũng xuất hiện nhiều so sánh giữa hai nữ ca sĩ, một người được xem là "chị đại" của V-pop, người còn lại là giọng ca trẻ ngày càng khẳng định vị trí riêng.
Trước làn sóng bàn luận, Hòa Minzy đã thẳng thắn lên tiếng, thể hiện thái độ rõ ràng và đầy tôn trọng đối với đàn chị.
Nữ ca sĩ Hòa Minzy.
Giọng ca Bắc Bling cho biết: "Mỹ Tâm là tượng đài và thần tượng của hầu hết thế hệ nghệ sỹ của Hòa. Hòa không nói bản thân không tự tin, hay mình đang tự ti nha, ai cũng có điểm riêng và thị phần khán giả riêng nhưng quá vớ vẩn khi cứ mang chị Tâm ra để so xong rồi vô tình anti lại có cớ chởi Hoà.
Một câu thôi không có thể nào mà so sánh, chị Tâm mãi là huyền thoại".
Rất nhanh những chia sẻ này của giọng ca Bắc Bling đã nhận được sự đồng tình từ cộng đồng mạng. Nhiều khán giả khen ngợi thái độ cầu thị và sự tôn trọng của Hòa Minzy dành cho tiền bối, điều không phải nghệ sĩ trẻ nào cũng làm được giữa thị trường V-pop đầy cạnh tranh.
Đặc biệt, việc Hòa Minzy được mời biểu diễn trong chương trình cấp quốc gia tại Ba Đình được xem là một bước ngoặt đáng tự hào trong sự nghiệp.
Nữ ca sĩ Mỹ Tâm.
Câu chuyện xoay quanh sự khiêm nhường của Hòa Minzy và vị thế vững vàng của Mỹ Tâm không chỉ đơn thuần là chuyện showbiz, mà còn phản ánh sự chuyển mình tích cực trong văn hóa ứng xử của nghệ sĩ Việt.
Trong một chương trình mang tính quốc gia như Đại lễ A80, sự góp mặt của các thế hệ ca sĩ là minh chứng cho tinh thần kết nối, giữa quá khứ và hiện tại, giữa những người đi trước và thế hệ kế thừa.
Ở đó, không còn chỗ cho sự hơn thua hay so đo vị trí, mà là sự đồng lòng cống hiến cho một chương trình nghệ thuật ý nghĩa, truyền tải tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc đến hàng triệu khán giả cả nước.
Gia Lai: Khai mạc Lễ hội tinh hoa đại ngàn – biển xanh hội tụ
(Chinhphu.vn) - Tối 29/8, tại phường Quy Nhơn, UBND tỉnh Gia Lai tổ chức khai mạc Lễ hội tinh hoa đại ngàn-biển xanh hội tụ 2025 với chủ đề "Khát vọng biển xanh – đại ngàn tỏa sáng", diễn ra đến ngày 2/9.
Chuyện học xưa & nay: Từ đại quan triều Nguyễn trở thành Bộ trưởng không bộ
Từng giữ chức Thị lang, Tham tri, Tuần vũ triều nhà Nguyễn, Tổng đốc Nghệ An thuộc chính phủ Trần Trọng Kim, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông trở thành Bộ trưởng không bộ phụ trách 3 tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh.
Đó là Phó bảng Đặng Văn Hướng (1887 - 1954), người làng Nho Lâm, xã Diễn Thọ, huyện Diễn Châu (nay là xã Tân Châu, Nghệ An). Gia đình ông có truyền thống thi thư, cha đỗ Đình nguyên Hoàng giáp, anh trai đỗ Phó bảng; bạn bè đồng liêu nhiều người là danh sĩ nổi tiếng đương thời.
Cha tài sinh con giỏi
Ở phủ Diễn Châu xưa, có hai gia tộc danh gia được giới nho học trọng vọng, kính cẩn mỗi khi nhắc tới là họ Đặng Nho Lâm và Cao Xuân Thịnh Mỹ. Với họ Cao Xuân Thịnh Mỹ, phải nhắc tới Đại học sĩ, Thượng thư bộ Học là Cao Xuân Dục; còn nói đến họ Đặng Nho Lâm thì không thể không nhắc tới Đình nguyên Hoàng giáp Đặng Văn Thuỵ.
Mối liên hệ giữa hai gia tộc danh gia bắt đầu từ khoa thi Hương năm 1878, khi ấy Đặng Văn Thuỵ cùng cha là cụ Đặng Văn Bính và một danh sĩ họ Cao là Cao Xuân Dục tham gia ứng thí. Khoa thi ấy, cụ thân sinh đỗ Tú tài, Cao Xuân Dục đỗ Cử nhân, còn Đặng Văn Thuỵ lại trượt.
Cao Xuân Dục cảm mến tài năng của Đặng Văn Thuỵ nên giúp ông ăn học và gả con gái là bà Cao Thị Bích. Khoa thi Hương 1882, Đặng Văn Thuỵ đỗ Cử nhân, được bổ làm Huấn đạo Nông Cống (Thanh Hóa) rồi Giáo thụ phủ Diễn Châu. Khoa thi năm 1904, ông đỗ Đình nguyên Hoàng giáp, cùng khoa thi với Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng. Ông được vời về triều nhậm chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, vài năm sau lại được thăng chức Tế tửu Quốc Tử Giám.
Nhà khoa bảng Đặng Văn Hướng. Ảnh tư liệu
Hoàng giáp Đặng Văn Thuỵ có với bà Cao Thị Bích 11 người con (7 trai, 4 gái). Trong nếp nhà thi thư, Đặng Văn Hướng được học hành bài bản và trong số các anh em, ông được coi là người nổi trội. Năm 1906, tức khi 19 tuổi, ông tham gia ứng thí đỗ Cử nhân. 13 năm sau nhằm khoa Kỷ Mùi (1919) - cũng là khoa thi cuối cùng trong thời phong kiến, Đặng Văn Hướng ứng thí đỗ Phó bảng. Khoa thi này, anh trai ông là Đặng Văn Oánh cũng đỗ Phó bảng, sau làm Giáo thụ An Nhân.
Sử sách không ghi chép sau khi đỗ đạt, Phó bảng Đặng Văn Hướng nhậm chức gì. Tuy nhiên lại cho biết, ông tham gia học tiếng Pháp trong hai năm và đỗ Thành chung. Do có học vấn toàn diện nên ông được triều đình nhà Nguyễn bổ dụng và trải qua các chức: Huấn đạo, Giáo thụ phủ Diễn châu, Tri huyện, Tri phủ, Thị lang Công bộ, Tham tri bộ Hình, Tuần vũ tỉnh Hà Tĩnh.
Tính tình của ông khá giống người cha Đặng Văn Thuỵ ở sự thẳng thắn, cương trực, sẵn sàng lên tiếng phê phán quan trên - bất kể là ta hay Tây, lại nhiều lần biểu hiện chủ nghĩa dân tộc giống với nhiều sĩ phu đương thời nên triều đình nhà Nguyễn cho ông về hưu sớm với hàm Thượng thư.
Trung tá Đặng Văn Việt năm 1958. Ảnh tư liệu
Dấu ấn vị đại quan trong Cách mạng Tháng Tám
Sau khi trí sĩ, Phó bảng Đặng Văn Hướng được mời tham gia nội các của chính phủ Trần Trọng Kim nhưng ông từ chối. Sau đó vì nhiều lời mời, lại nể nang bạn bè đồng liêu vốn cũng từng là quan nhà Nguyễn nên ông nhận lời làm Tổng đốc Nghệ An với tham vọng có thể góp sức mình trong việc chấn chỉnh quốc nội.
Trong thời gian ông làm Tổng đốc, phong trào Việt Minh phát triển mạnh mẽ. Đầu năm 1945, Việt Minh Nghệ Tĩnh được thành lập với sự tham gia của ông Trần Văn Cung (sau này là Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Trung Bộ). Các nguồn ghi chép cho biết, khi ấy Tổng đốc Đặng Văn Hướng có quan hệ bí mật với Trần Văn Cung và ông Lê Viết Lượng (sau là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Liên khu IV, Bí thư Tỉnh ủy lâm thời Thừa Thiên).
Trong vai trò Tổng đốc, Đặng Văn Hướng ra sức chu toàn bổn phận, vừa lo cho dân làm ăn vừa ngấm ngầm đối phó với phát-xít Nhật. Mặt khác, ông cùng Trần Văn Cung bí mật chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa tại Nghệ An. Ông cho thay thế lãnh binh bằng ông Trần Văn Quang (sau này là Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng).
Chức Chánh văn phòng cũng được ông thay thế và giao cho ông Nguyễn Tạo (sau này là Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp). Đồng thời, một số tri huyện có xu hướng thân Pháp, Nhật cũng được thay thế bằng những người có xu hướng dân tộc…
Vì bộ máy chính quyền Nghệ An đã được “Việt Minh hóa” nên khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông bàn giao ấn tín, súng đạn, tiền của, hồ sơ từ chính quyền Trần Trọng Kim sang chính quyền cách mạng mà không tốn một viên đạn, giọt máu.
Ảnh chụp đại gia đình cụ Phó bảng Đặng Văn Hướng trong lễ mừng thọ bà Cao Thị Bích vào năm 1943. Ảnh tư liệu
Một số tài liệu còn cho biết, sau đó xe của chính quyền cách mạng treo cờ đỏ sao vàng, rước ông về quê Nho Lâm rất trọng thị. Cũng vì có công nên khi thành lập Chính phủ đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư “Kính gửi Công đại nhân Đặng Văn Hướng” và mời ông làm Bộ trưởng không bộ phụ trách 3 tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh.
Theo Cổng thông tin điện tử Chính phủ, “Chính phủ mới” thay cho Chính phủ liên hiệp Kháng chiến, thành phần do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình tại Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, thông qua ngày 3/11/1946 và được bổ sung cho đến năm 1955, ghi rõ: Chủ tịch nước, kiêm Thủ tướng - cụ Hồ Chí Minh, sau đó là các Bộ trưởng: Huỳnh Thúc Kháng (Bộ Nội vụ), Võ Nguyên Giáp (Bộ Quốc phòng), Phan Anh (Bộ Kinh tế)…
Riêng Bộ trưởng không bộ đầu tiên được xác định là cụ Nguyễn Văn Tố (hi sinh năm 1947), sau đó đến Đặng Văn Hướng (từ năm 1947), sau Đặng Văn Hướng là Bồ Xuân Luật.
Bộ trưởng không bộ là một chức vụ trong Chính phủ, tương đương với Bộ trưởng các bộ nhưng không đứng đầu một Bộ cụ thể. Thay vào đó, Bộ trưởng không bộ được giao nhiệm vụ quản lý Nhà nước trong một số lĩnh vực nhất định hoặc tham gia vào hoạt động chung của Chính phủ.
Trong vai trò Bộ trưởng không bộ, Đặng Văn Hướng cùng các bí thư, chủ tịch 3 tỉnh ra sức kêu gọi đồng bào ra sức kiến quốc, góp công, góp sức cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Năm 1954, ông qua đời tại quê hương Nho Lâm - nơi “rừng chữ, rừng nho”, để lại tiếng thơm thanh quan và những vinh dự của công cuộc góp sức mình vào thành công của Cách mạng Tháng Tám.
Văn bia “Sĩ hội Nho Lâm” ghi chép tên tuổi các nhà khoa bảng trong làng. Ảnh: Trần Hòa
Hùm xám đường số 4
Theo gia phả họ ngoại (Cao Xuân), Phó bảng Đặng Văn Hướng kết hôn với bà Hoàng Thị Hiến, con gái của cụ Hoàng Đạo Phương - anh ruột học giả Hoàng Đạo Thúy. Ông bà có với nhau 8 người con: 3 trai, 5 gái. Trong đó, bà Đặng Thị Tâm là Giáo sư ngành Tâm lý trẻ em tại Illinois (Hoa Kỳ), ông Đặng Văn Ký là Giáo sư ở Đại học Bách khoa (Pháp); đặc biệt là ông Đặng Văn Việt (1920 - 2021) - người được mệnh danh là “Hùm xám đường số 4”.
Theo nghiên cứu của tác giả Kiều Mai Sơn, ngày 21/8/1945, cùng với Nguyễn Thế Lương (sau này là Thiếu tướng - PGS Cao Pha, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam), Đặng Văn Việt được cử hạ lá cờ quẻ ly của triều Nguyễn, kéo lá cờ đỏ sao vàng của chính quyền cách mạng lên kỳ đài trước Ngọ Môn (Huế). Sau đó, hai ông lại nhận lệnh đi bắt cựu Tổng đốc Ngô Đình Khôi trong ngày Huế khởi nghĩa (ngày 23/8/1945).
Trước đó, đang là sinh viên Y khoa Đại học Đông Dương, sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp, ông về Huế trở thành học viên Trường Thanh niên Tiền tuyến do Bộ trưởng Bộ Thanh niên Phan Anh mở. Từ những kiến thức quân sự vỡ lòng ở ngôi trường này do thầy Phan Tử Lăng - Hiệu trưởng huấn luyện, Đặng Văn Việt tham gia xây dựng lực lượng vũ trang.
Nguồn gia phả họ Cao Xuân cho biết, ngay sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông Đặng Văn Việt tham gia quân đội và trở thành một trong những chỉ huy đầu tiên. Do nền tảng kiến thức tổng quát và quân sự cơ bản được đào tạo, ông được chỉ định làm Phân đội trưởng Phân đội 1 (gồm 36 người) của Giải phóng quân, trấn giữ tại cửa Thuận An. Tại đây, ông đã chỉ huy bao vây chiếc tàu đầu tiên của Pháp định quay lại chiếm Huế, bắt sống một Đại úy Pháp, Đại đội trưởng thuộc Trung đoàn do tướng Alessandri chỉ huy.
Đường làng Nho Lâm – quê hương Phó bảng Đặng Văn Hướng. Ảnh: Trần Hòa
Khi quân Pháp chiếm Huế, ông được cử làm Chỉ huy trưởng Mặt trận đường số 9 (Hạ Lào 1945), rồi Chỉ huy trưởng Mặt trận đường số 7 (Thượng Lào 1946), thực hiện nhiều cuộc giao chiến làm giảm sức tiến công của quân Pháp. Sau đó, ông được điều ra Việt Bắc làm lãnh đạo Ban Nghiên cứu trực thuộc Bộ Tổng tham mưu. Một thời gian ngắn ông được cử làm Chủ nhiệm Quân y.
Năm 1947, ông được cử làm Chỉ huy trưởng Mặt trận đường số 4. Năm 1948, ông kiêm chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28. Ông đã chỉ huy quân đội Việt Minh hoạt động dọc tuyến đường số 4, tổ chức nhiều trận phục kích và công đồn, gây rất nhiều khó khăn cho lực lượng quân Pháp đồn trú tại đây, phần nào giảm bớt áp lực của quân Pháp ở chiến khu Việt Bắc.
Do những chiến tích lẫy lừng trên đường số 4, đặc biệt với các trận phục kích trên đèo Bông Lau từ năm 1947 đến 1949, tiêu diệt hơn 100 xe giới quân sự Pháp, nhân dân vùng Cao - Bắc - Lạng xưng tụng ông là “Đệ tứ lộ Đại vương”, còn các binh sĩ Pháp gọi ông với nhiều biệt danh khác nhau như “Hùm xám đường số 4” (le Tigre gris de la RC4), “tiểu tướng Napoléon” (mon petit Napoléon)...
Khi Trung đoàn 174 chủ lực được thành lập ngày 19/8/1949, trên cơ sở hợp nhất lực lượng của 3 trung đoàn thuộc 3 tỉnh: Trung đoàn 74 (Cao Bằng), Trung đoàn 72 (Bắc Cạn), Trung đoàn 28 (Lạng Sơn), ông được cử làm Trung đoàn trưởng đầu tiên và Chu Huy Mân làm Chính ủy đầu tiên.
Ngày 16/9/1950, Đặng Văn Việt chỉ huy Trung đoàn 174, phối hợp với Trung đoàn 209, chủ động đánh chiếm cứ điểm Đông Khê, mở đầu Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, sau đó bao vây cô lập Cao Bằng, uy hiếp cứ điểm Thất Khê và phá thế trận phòng thủ của quân Pháp trên đường số 4. Chỉ trong vòng một tháng, chiến dịch kết thúc với thắng lợi rực rỡ của Quân đội Nhân dân Việt Nam, trong đó có phần không nhỏ của Đặng Văn Việt và Trung đoàn 174 do ông chỉ huy.
Sau chiến dịch Biên giới, ông tiếp tục chỉ huy Trung đoàn tham gia nhiều chiến dịch lớn khác như chiến dịch Tây Bắc (1952), chiến dịch Hòa Bình, phá hủy căn cứ Đồng bằng Bắc Bộ của quân Pháp (1952)...
Năm 1958, trong đợt phong quân hàm chính quy đầu tiên của quân đội, ông được phong quân hàm Trung tá. Ra quân năm 1960, ông tiếp tục chiến đấu trên mặt trận xây dựng 20 năm, trong đó 15 năm liên tục chỉ làm Cục phó ở Tổng cục Thủy sản đến khi nghỉ hưu.
Do từng là một trong những sĩ quan cao cấp thời kỳ đầu và từng có thời gian gắn bó với chiến trường đường số 4, từ năm 1985 ông Đặng Văn Việt bước vào con đường văn chương. Ông viết và dịch nhiều hồi ký liên quan đến con đường và giai đoạn lịch sử này. Đặc biệt, với hồi ký “Đường số 4 rực lửa”, ông được tặng giải thưởng cao nhất của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam vào năm 1999. Hồi ký được Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết lời tựa, Đại tướng Hoàng Văn Thái viết lời giới thiệu. Một số tác phẩm của bản thân cũng được ông dịch sang tiếng Pháp, tiếng Anh để giới thiệu ra quốc tế.
Hà Nội rực sáng trong đêm nghệ thuật đặc biệt kỷ niệm 80 năm Quốc khánh
Tối 31/8, tại Trung tâm Triển lãm quốc gia, chương trình nghệ thuật đặc biệt “Hà Nội - Sáng mãi khát vọng Việt Nam” do thành phố Hà Nội tổ chức đã diễn ra hoành tráng, rực rỡ và giàu cảm xúc.
Đây là điểm nhấn văn hóa – nghệ thuật trong khuôn khổ Triển lãm thành tựu đất nước với chủ đề “80 năm Hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, góp phần chào mừng 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9.
Phát biểu khai mạc, bà Vũ Thu Hà - Phó chủ tịch UBND thành phố Hà Nội khẳng định: cùng với các không gian triển lãm, chương trình nghệ thuật đặc biệt là lời tri ân sâu sắc tới các thế hệ cha anh đã hiến dâng xương máu cho nền độc lập, đồng thời khơi dậy niềm tự hào dân tộc, ý chí, trí tuệ và khát vọng Việt Nam.
Với chủ đề xuyên suốt là “Khát vọng phát triển vì một Việt Nam hùng cường, phồn vinh và hạnh phúc”, chương trình đã đưa khán giả trở lại thời khắc lịch sử hào hùng của mùa Thu Cách mạng năm 1945.
Đồng thời khắc họa hình ảnh một Hà Nội đổi mới, năng động, hội nhập nhưng vẫn gìn giữ cốt cách ngàn năm văn hiến, Thành phố Vì hòa bình, Thành phố Sáng tạo.
Nghi thức chào cờ và hát Quốc ca được tổ chức trang nghiêm với sự tham gia của hơn 2.000 nghệ sĩ, diễn viên và đông đảo khán giả.
Không khí thiêng liêng ấy đã khơi dậy tinh thần độc lập và sức mạnh đoàn kết dân tộc.
Chương trình gồm ba phần được dàn dựng công phu, kết hợp ca múa nhạc, hoạt cảnh sân khấu, tư liệu lịch sử cùng công nghệ trình chiếu hiện đại như mapping 3D, hiệu ứng laser, sân khấu đa tầng.
Chương I “Ngày, tháng, năm...” tái hiện một Hà Nội kiên trung, bất khuất trong khói lửa chiến tranh, nơi niềm tin và tình yêu quê hương đã nuôi dưỡng sức mạnh dân tộc.
Chương II “Hà Nội trong mắt ai” khắc họa hình ảnh Thủ đô thanh lịch, giàu tình người, được tái hiện qua lời kể của một nhân chứng đặc biệt – cây bàng nơi góc phố, như một biểu tượng ký ức bền bỉ của Hà Nội.
Chương III “Hà Nội - Trái tim Việt Nam vươn mình” mở ra bức tranh về một thành phố hội nhập, sáng tạo, khẳng định vai trò trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, cùng cả nước hướng tới mục tiêu xây dựng Việt Nam hùng cường và thịnh vượng.
Chương trình quy tụ dàn nghệ sĩ tên tuổi như NSND Thu Huyền, NSƯT Đăng Dương, các ca sĩ Đông Hùng, Anh Tú, Lâm Bảo Ngọc, Ngọc Anh, nhóm Oplus… cùng gần 2.000 nghệ sĩ, diễn viên tham gia biểu diễn.
Đặc biệt, màn trình diễn dù lượn mang theo Quốc kỳ tung bay trên bầu trời Thủ đô và phần pháo hoa nghệ thuật rực rỡ đã tạo nên cao trào giàu cảm xúc, khắc ghi hình ảnh về một Hà Nội kiêu hãnh, sáng mãi khát vọng Việt Nam.
Với sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật truyền thống và công nghệ hiện đại, chương trình không chỉ là một sự kiện biểu diễn đơn thuần, mà còn là thông điệp về niềm tin, ý chí và khát vọng vươn tầm của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Hành trình từ cội nguồn đến hiện đại tại trưng bày ‘Lịch sử, văn hóa Việt Nam’
Trong khuôn khổ Triển lãm thành tựu đất nước “80 năm Hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” diễn ra tại Trung tâm Triển lãm quốc gia (Hà Nội), Bảo tàng Lịch sử Quốc gia giới thiệu đến công chúng trưng bày chuyên đề “Lịch sử, văn hóa Việt Nam”.
Đây là một trong những điểm nhấn nổi bật tại phân khu Công nghiệp văn hóa, góp phần giúp người xem nhìn lại tiến trình dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước qua lăng kính văn hóa.
Trưng bày giới thiệu 130 tài liệu, hiện vật và 230 hình ảnh tiêu biểu, khái quát dòng chảy văn hóa Việt Nam từ buổi bình minh của lịch sử đến hiện đại. Các hiện vật được tuyển chọn công phu, giàu giá trị minh chứng, phản ánh những dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
Phần mở đầu của trưng bày đưa công chúng trở về với thời kỳ Tiền sử, thông qua những di vật khảo cổ như An Khê, Núi Đọ, Thẩm Khuyên, Thẩm Hai. Đây là bằng chứng về sự xuất hiện sớm của con người trên đất Việt, đặt nền móng cho sự hình thành cộng đồng cư dân bản địa.
Tiếp theo, những hiện vật gắn liền với các nền văn hóa lớn thời cổ đại như Đông Sơn ở miền Bắc, Sa Huỳnh ở miền Trung và Đồng Nai ở miền Nam được giới thiệu, cho thấy sự đa dạng và phong phú.
Triển lãm cũng phản ánh sức sống kiên cường của văn hóa Việt Nam trong suốt hàng nghìn năm chống đồng hóa, giữ vững bản sắc dân tộc.
Điểm nhấn đặc biệt của trưng bày là các hiện vật gắn với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trong 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 được tái hiện như một cột mốc lịch sử vĩ đại, chấm dứt một nghìn năm Bắc thuộc.
Trên nền tảng ấy, các nhà nước phong kiến Việt Nam tiếp tục kế thừa và phát triển văn hóa dân tộc qua nhiều triều đại: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Văn hóa Việt Nam thời kỳ này không chỉ rực rỡ về thành tựu nghệ thuật, kiến trúc, tư tưởng mà còn hun đúc nên tinh thần độc lập, tự cường, góp phần quan trọng vào những chiến công bảo vệ và xây dựng đất nước.
Chuỗi mạch nguồn văn hóa nối tiếp nhau đã tạo thành sức mạnh thời đại, hội tụ và phát huy mạnh mẽ trong thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Với cách tiếp cận hệ thống, kết hợp hiện vật, hình ảnh và tư liệu chọn lọc, trưng bày không chỉ giúp công chúng hiểu sâu hơn về lịch sử dân tộc mà còn góp phần khơi dậy niềm tự hào, củng cố niềm tin vào sức mạnh văn hóa trong hành trình phát triển đất nước.