Ông còn là vị phúc thần được nhân dân vùng biển thờ phụng qua nhiều thế hệ.
Vị tướng thủy quân tài ba của nhà Trần
Hoàng Tá Thốn (1254 - 1339) quê ở làng Vạn Phần, phủ Diễn Châu (nay thuộc xã Đức Châu, Nghệ An) là một đại thần dưới triều đại nhà Trần, góp công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ 3 của Đại Việt.
Theo sự tích được ghi lại trên văn bia “Nam miếu tôn thần sự tích” dựng tại đền thờ ngài ở quê hương Vạn Phần, vào một buổi sáng, bà Trương Thị Hoa ra sông gánh nước bỗng thấy 2 con trâu vàng từ dưới nước nhảy lên tử chiến dữ dội và lao đến chỗ bà. Bà vội cầm đòn gánh để đánh đuổi, đôi trâu lại nhảy xuống nước rồi biến mất.
Trước khi gánh nước về nhà, bà rửa đòn gánh. Nhưng lạ thay, bà vừa khuấy đầu đòn gánh xuống sông thì bỗng nhiên nước nơi đó khô cạn, nhưng khi bà cất đòn gánh thì nước lại đầy như thường. Thấy lạ, bà đưa gần lại nhìn thì thấy đầu đòn gánh có dính lông trâu vàng. Bà liền gom vật lạ ấy vào dải yếm rồi gánh nước về nhà.
Không lâu sau, bà Hoa cảm thấy trong người khác thường rồi có thai. Ngày mãn nguyệt khai hoa, ánh hào quang bỗng tỏa sáng khắp nhà, một đứa bé khôi ngô tuấn tú, gương mặt hồng hào ra đời được đặt tên là Hoàng Tá Thốn.
Thuở nhỏ, Hoàng Tá Thốn có sức khỏe hơn người, thông minh, lanh lợi và đặc biệt đam mê võ nghệ. Đặc biệt, làng Vạn Phần là nơi ngã ba sông đổ ra biển, nên ông còn có tài bơi lội, lặn dưới nước.
Lớn lên, khi đất nước bị quân Mông - Nguyên xâm lược, hưởng ứng lời kêu gọi của triều đình và các bô lão sau Hội nghị Diên Hồng, Hoàng Tá Thốn rời quê hương lên đường vào kinh và được sung vào đội bộ binh.
Sau một thời gian tập luyện tích cực, những vị tướng chỉ huy thấy ông là người am hiểu binh pháp, lại có biệt tài bơi lội cho nên sung vào đội thủy quân của triều đình. Khác với 2 lần chiến tranh trước đó, triều đình nhà Trần không huy động lực lượng lớn chặn đánh quân Nguyên từ đầu, mà chỉ đánh những trận có tính chất kìm chân giặc.
Bộ phận chỉ huy và phần lớn lực lượng quân Đại Việt rút về vùng biển Đồ Sơn (Hải Phòng), từ đó tổ chức các cuộc tấn công vào căn cứ Vạn Kiếp và đặc biệt phát huy thế mạnh về thủy quân, liên tiếp đánh vào điểm yếu của thủy quân Mông - Nguyên.
Trong trận đánh quyết định vào sáng 9/4, năm Mậu Tý (1288) khi quân ta dẫn dụ được đoàn thuyền của tướng Ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng, nhân lúc nước lớn, thủy quân nhà Trần tràn ra giao chiến rồi giả thua chạy dẫn địch vào sâu sông Bạch Đằng.
Cùng với các cánh quân khác, cánh thủy quân của Hoàng Tá Thốn chỉ huy mai phục từ trước, đổ ra đánh phá quyết liệt làm cho giặc Nguyên chịu thiệt hại rất nặng. Đặc biệt là việc đánh đắm hàng chục thuyền giặc, trong đó có thuyền chủ tướng và góp công bắt sống Ô Mã Nhi.
Trận Bạch Đằng lịch sử kết thúc, quân nhà Trần đại thắng. Đoàn thuyền hơn 600 chiếc của quân Mông - Nguyên bị tiêu diệt hoàn toàn. Các tướng giặc Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ... bị bắt sống. Quân và dân Đại Việt còn thu được trên 400 chiến thuyền.
Để tránh hận thù giữa 2 nước và theo yêu cầu của vua Nguyên, tháng 2 năm Kỷ Sửu (1289) Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trình vua Trần Nhân Tông (1258 - 1308) kế hoạch trao trả tù binh, cho Ô Mã Nhi và đội quân Nguyên chiến bại về nước. Một lần nữa, tướng quân Hoàng Tá Thốn lại được giao thực thi nhiệm vụ quan trọng này.
Ô Mã Nhi vốn là một tướng tàn bạo, hiếu chiến, việc được thả không khác nào “thả hổ về rừng”. Hoàng Tá Thốn nhận kế sách từ Hưng Đạo Vương tạo sự cố trên đường đi để tiêu diệt, trừ tận gốc hiểm họa về sau.
Tướng Hoàng Tá Thốn chọn một đội quân gồm nhiều người tâm phúc, giỏi bơi lội làm phu thuyền. Chiếc thuyền chở Ô Mã Nhi được đục thủng mấy lỗ rồi trám lại bằng những miếng gỗ được đóng đinh và gắn keo nhựa.
Đêm đến, khi có thời cơ, ông cho người lặn xuống dùng đục nạy tháo các miếng gỗ ra, nước nhanh chóng tràn vào thuyền, không sao trám được. Tướng giặc chết chìm trong nước nhưng nhiều tên lính khác được cứu thoát. Rồi chính binh lính được cứu sống này là nhân chứng, khiến cho vua Nguyên tin rằng tướng Ô Mã Nhi bị chết do tai nạn đắm thuyền.
“Kỷ Sửu (1289) năm thứ ba đời vua Trần Nhân Tông, mùa Xuân tháng 2, sai Nội gia thư là Hoàng Tá Thốn đưa bọn Ô Mã Nhi về nước, dùng kế của Hưng Đạo Vương cho người giỏi bơi lội làm phu thuyền, ban đêm dùi thuyền cho chìm, bọn Ô Mã Nhi chết đuối cả”, sự việc được Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại.

Vị phúc thần bảo vệ ngư dân vùng biển
Sau chiến công này, nhà vua ban cho Hoàng Tá Thốn tước “Sát Hải Đại Vương”. Về sau, ông được triều đình bổ làm tướng thống lĩnh các đạo thủy binh coi giữ 12 cửa biển từ vịnh Bắc Bộ vào đến miền Trung.
Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ bờ biển, Hoàng Tá Thốn tổ chức các đồn trại ven biển, thường xuyên tuần tra canh phòng và kịp thời tiêu diệt nhiều đám giặc biển. Những lần quân Chiêm Thành sang quấy rối hải phận nước ta, cướp bóc một số địa phương ven biển ở phía Nam, Hoàng Tá Thốn đem quân đánh dẹp. Quân nhà Trần tiến đến đâu, giặc Chiêm Thành tan vỡ đến đó.
Trong thời gian thống lĩnh thủy binh, ông có điều kiện để về thăm lại quê hương. Thấy cảnh xóm làng, nhân dân nghèo khổ, Hoàng Tá Thốn bỏ tiền của, cùng các con trai đưa cư dân ven biển Vạn Phần lên tìm đất mới để khai hoang, lập làng. Thôn Vạn Tràng, xã Hợp Minh (Nghệ An) chính là nơi khai dân lập ấp của dòng tộc Hoàng Tá Thốn.
Những năm cuối đời, do tuổi cao Hoàng Tá Thốn được triệu về kinh để làm việc ở Nội gia thư. Một lần đi tuần thú đường biển từ Bắc vào Nam đến Cửa Trào (Thanh Hóa) ông bị lâm bệnh rồi qua đời, hưởng thọ 85 tuổi.
Tiếc thương vị danh tướng tận trung với nước, vua Trần Hiến Tông (1329 - 1341) truy tặng ông bậc “Đại liêu thượng đẳng tối linh tôn thần”, xếp ngang hàng với 7 vị Thượng đẳng thần được cả nước cúng tế. Vua cũng ban thuyền rồng, cho đội quân danh dự chở linh cữu ông về an táng tại Vạn Phần và cho lập đền thờ.
Công lao của Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn được nhân dân ghi nhớ. Nhiều làng ven biển từ Bắc vào Nam lập đền thờ, tôn ông làm phúc thần che chở cho ngư dân. Tiêu biểu trong số đó là đền Đức Hoàng tại xã Giai Lạc (Nghệ An).
Ngôi đền được xây dựng vào thời nhà Trần, để phụng thờ các vị thần linh có công “Bảo Quốc hộ dân”, trong đó Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn được thờ tại thượng điện.
Đền nằm trong vùng đất cao rộng, hướng ra “Linh đàm Diệu Ốc”, là một trong “Đông Thành bát cảnh” (huyện Yên Thành và Diễn Châu ngày xưa), hài hòa giữa cảnh sắc tự nhiên non xanh nước biếc và kiến trúc tâm linh tín ngưỡng cổ xưa.
Đền Đức Hoàng còn phối thờ Liễu Hạnh công chúa và Bạch Y công chúa. Liễu Hạnh công chúa là vị thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu, một trong “Tứ bất tử” trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Bạch Y công chúa, tương truyền là con gái vua Hồ Quý Ly, một nàng công chúa có tấm lòng nhân hậu, xót thương người nghèo. Một lần bà lập mưu nói dối vua để cứu dân phu đào kênh Sắt (một đoạn của kênh Nhà Lê ở Nghệ An), bị vua cha tức giận giết chết. Sau khi chết, bà thường hiển linh để cứu giúp những người bị nạn, phù hộ cho đất nước được phồn vinh.
Trong đền, có một ngôi miếu nhỏ đơn sơ thờ thần Rắn. Truyền thuyết dân gian kể rằng, ở làng Diệu Ốc, xã Giai Lạc có bàu Ác. Ven đầm có đôi vợ chồng nông dân phúc đức nhưng hiếm muộn. Một hôm, người vợ xuống tắm dưới đầm rồi đậu thai, sinh 2 quả trứng, nở ra 2 con rắn.
Họ coi rắn như con, sớm tối không rời. Một hôm, trong lúc làm ruộng, người cha sơ ý cuốc đứt đuôi một con rắn. Con rắn cụt bỏ đi nơi khác. Con rắn lành ở lại bàu Ác, về sau được nhân dân lập miếu thờ tôn làm Thành hoàng làng của làng Diệu Ốc.

Điểm đến tâm linh lưu giữ hồn xưa xứ Nghệ
Kiến trúc đền Đức Hoàng được bố trí theo kiểu chữ “Tam”, đến nay hầu như vẫn còn lưu giữ được nguyên vẹn kiến trúc cổ thời Lê - Nguyễn cùng nhiều công trình phụ trợ khác như: Nghi môn, tắc môn, sân, vườn, giếng nước.
Đền mang vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc, linh thiêng với những chi tiết trang trí tinh tế, mềm mại. Đặc sắc nhất là tòa hạ điện, có 3 gian, 4 vì kết cấu theo kiểu giao nguyên, trên vòm cuốn trang trí bộ tứ linh và hoa văn cách điệu.
Gian giữa xây chồng diêm kiểu vọng lâu, mái lợp ngói âm dương, các đầu dao và đầu kìm đắp hình con sấu ẩn mình trong mây. Giữa bờ nóc là hình tượng mặt trời chiếu sáng. Vọng lâu mang ý nghĩa như một lầu ngắm cảnh vừa mang ý nghĩa tôn vinh công trạng và sự linh ứng của thần.
Nhà trung điện gồm 3 gian, bên trái thờ Liễu Hạnh công chúa, gian giữa thờ các vị thần hợp tự, bên phải thờ Đức Thánh Trần. Nhà thượng điện gồm 2 gian thờ, đây là không gian thiêng đặt bài vị và tượng Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn.

Với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, tri ân các bậc tiền nhân, hàng năm, cứ vào dịp đầu xuân, nhân dân xã Giai Lạc và du khách thập phương lại nô nức khai hội đền Đức Hoàng.
Phần lễ được tổ chức với các nội dung lễ khai quang, lễ yết cáo, lễ rước, lễ tế thần, lễ tạ và lễ cáo từ. Phần hội với nhiều những hoạt động phong phú như: Đánh cờ người; liên hoan các câu lạc bộ dân ca Ví - Giặm và Hội thả hoa đăng trên hồ Diệu Ốc.
Cùng với đó là các trò chơi dân gian như kéo co, vật tự do, đẩy gậy, đu tiên, chọi gà; các trò chơi hiện đại và nhiều hoạt động vui chơi dành cho nhiều lứa tuổi.
Với những giá trị văn hóa, lịch sử, năm 1998, đền Đức Hoàng được Bộ VH-TT&DL công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Năm 2022, được UBND tỉnh Nghệ An công nhận điểm du lịch và sản phẩm OCOP về du lịch.
Lễ hội đền Đức Hoàng không chỉ là dịp để người dân thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, tri ân Sát Hải Đại Vương và các bậc tiền nhân, mà còn là một “địa chỉ đỏ” góp phần giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ hôm nay và mai sau.