Quản lý hồ đập trước thách thức mới: Đòi hỏi cơ sở dữ liệu chuẩn hóa và hệ thống vận hành thông minh

24/11/2025 21:00

(Chinhphu.vn) - Mưa lũ cực đoan 2024–2025 đặt ra sức ép lớn, đòi hỏi phải nâng cấp năng lực dự báo và điều hành hồ chứa.

Quản lý hồ đập trước thách thức mới: Đòi hỏi cơ sở dữ liệu chuẩn hóa và hệ thống vận hành thông minh- Ảnh 1.

Hồ thủy điện và thủy lợi chia sẻ dữ liệu hạn chế, chưa có cơ chế điều phối thống nhất theo lưu vực

Cần có cơ sở dữ liệu toàn ngành

Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ NN&MT) cho rằng việc quản lý, vận hành an toàn đập, hồ chứa trên cả nước hiện vẫn đang gặp nhiều thách thức và đứng trước yêu cầu hoàn toàn mới.

Vì thế hiệu quả cắt lũ của hệ thống hồ chứa thủy lợi vẫn chưa đạt kỳ vọng, nhất là với những hồ chỉ có tràn tự do, không có cửa van điều tiết, hoặc những hồ chứa chủ động hạ mực nước đón lũ do thiếu tự tin về dự báo.

Ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi), nhìn nhận, dù các hồ lớn vận hành an toàn trong mùa mưa lũ 2025, hệ thống hồ vừa và nhỏ vẫn đang đối mặt nhiều rủi ro.

Ông An cho biết hiện có hàng loạt khó khăn kéo dài, đặc biệt ở nhóm hồ vừa và nhỏ do địa phương quản lý. Tỷ lệ thực hiện các yêu cầu bắt buộc về an toàn đập vẫn rất thấp: chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn và chỉ 19% lắp thiết bị quan trắc. Nhiều hồ chưa có quy trình vận hành hoặc mốc bảo vệ, dẫn đến nguy cơ mất an toàn khi mưa lũ đến bất ngờ.

Ông An đánh giá, thách thức lớn nhất hiện nay là thiếu dữ liệu kỹ thuật đầy đủ và hệ thống công nghệ đồng bộ. Cơ sở dữ liệu hồ chứa của Bộ được xây dựng từ năm 2016 nhưng mới khoảng 900 hồ có thông số đầy đủ. 

TS. Nguyễn Văn Mạnh, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ (Viện Quy hoạch Thủy lợi), cho biết hiện Viện duy trì các cơ sở dữ liệu quan trọng gồm: dữ liệu an toàn hồ đập, dữ liệu vận hành gần 45.000 công trình tưới tiêu, hệ thống đo mưa tự động Vrain (2.600 trạm) và dữ liệu khí tượng thủy văn quốc gia. Những thông tin này phục vụ mô phỏng thủy lực, dự báo ngập, xây dựng bản đồ cảnh báo lũ. Tuy nhiên, theo TS. Mạnh, chất lượng dự báo còn phụ thuộc lớn vào dữ liệu mưa và kinh nghiệm chuyên gia, trong khi các mô hình đang dần lạc hậu so với tốc độ biến đổi khí hậu.

Để khắc phục, ông đề xuất cần xây dựng cơ sở dữ liệu lớn dùng chung cho toàn ngành, chuẩn hóa định danh công trình. Tăng cường kết nối dữ liệu với hệ thống khí tượng thủy văn quốc gia và các nền tảng thời tiết. Ứng dụng AI phân tích dữ liệu mưa – dòng chảy nhằm rút ngắn thời gian xử lý và giảm sai số dự báo. Duy trì lực lượng chuyên gia trực mô hình 24/7 để kiểm định dữ liệu và hiệu chỉnh mô hình.

Theo ông Mạnh, chỉ khi dữ liệu thống nhất và công nghệ hiện đại được vận dụng, dự báo lũ mới thực sự cải thiện.

Khó khăn phối hợp vận hành liên hồ

Mưa lũ những năm gần đây diễn biến trái quy luật, bão xuất hiện dồn dập. Không gian thoát lũ bị thu hẹp bởi đô thị hóa nhanh, hạ tầng tiêu thoát chưa theo kịp. Phối hợp vận hành liên hồ vẫn là "điểm mù" lớn.

Ông Phan Tiến An cho rằng cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa. Trước hết là hoàn thiện thể chế, sửa đổi các quy định pháp lý, ban hành tiêu chuẩn chung cho cơ sở dữ liệu, quan trắc và phần mềm vận hành. Cơ sở dữ liệu ngành phải được chuẩn hóa và vận hành theo nguyên tắc dùng chung, cho phép địa phương dùng phần mềm riêng nhưng bắt buộc kết nối qua API chuẩn.

Song song đó, cần đầu tư hoặc thuê dịch vụ quan trắc hiện đại, xây dựng hệ thống cảnh báo tự động, nâng cao năng lực cán bộ trong phân tích dữ liệu và vận hành công nghệ mới. Việc bổ sung định mức kinh tế - kỹ thuật cho đầu tư IoT, phần mềm giám sát, AI và điện toán đám mây sẽ tạo cơ sở để các địa phương lập dự toán và triển khai thống nhất hơn.

Ông An khẳng định, khi dữ liệu được chuẩn hóa, hệ thống quan trắc đầy đủ và công nghệ hỗ trợ ra quyết định được áp dụng rộng rãi, công tác vận hành hồ chứa sẽ an toàn hơn, kịp thời hơn và đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt.

GS.TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam đánh giá, Việt Nam đã quan tâm xây dựng Hệ thống hỗ trợ vận hành (DSS) và thực tế cho thấy công cụ này hỗ trợ hiệu quả trong vận hành hồ chứa, liên hồ chứa và phòng chống thiên tai. Nhưng trước yêu cầu ngày càng lớn về an toàn đập, an toàn hạ du và tối ưu khai thác nước trong bối cảnh cực đoan khí hậu, Việt Nam cần một hệ thống hỗ trợ vận hành thông minh hơn, hiện đại hơn, đủ khả năng đáp ứng những thách thức mới của quản lý tài nguyên nước.

Đỗ Hương

Tham khảo thêm
Tham khảo thêm
Tối ưu vận hành liên hồ chứa bằng công nghệ và dữ liệuTối ưu vận hành liên hồ chứa bằng công nghệ và dữ liệu
Tham khảo thêm
Nhiều hồ chứa thủy lợi chưa được xây dựng phương án ứng phó khẩn cấpNhiều hồ chứa thủy lợi chưa được xây dựng phương án ứng phó khẩn cấp