Chất lượng công trình xây dựng: Chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu hiểm

04/11/2025 16:30

(Chinhphu.vn) - Luật Xây dựng (sửa đổi) tập trung quy định đối với hoạt động xây dựng, quản lý theo quy chuẩn, tiêu chuẩn; bảo đảm tinh thần “chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra giám sát”.

Chất lượng công trình xây dựng: Chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu hiểm- Ảnh 1.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh trình bày báo cáo thẩm tra dự án Luật Xây dựng (sửa đổi)

Khắc phục hạn chế, bất cập trong công tác đầu tư xây dựng

Sáng 4/11, Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh báo cáo thẩm tra dự án Luật Xây dựng (sửa đổi).

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh nhấn mạnh, Luật Xây dựng năm 2014 được Quốc hội khoá XIII thông qua vào kỳ họp thứ 7 ngày 18/6/2014, có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2015. Qua 10 năm thực hiện, bên cạnh các kết quả đạt được, Luật Xây dựng cũng đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, đặt ra yêu cầu phải sửa đổi để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

TIN LIÊN QUANĐề xuất quy định mới xử phạt vi phạm hành chính về xây dựngĐề xuất quy định mới xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng

Quá trình xây dựng dự án Luật, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Xây dựng thực hiện đầy đủ, đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 64/2025/QH15 (được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 87/2025/QH15), tiếp thu đầy đủ ý kiến, ý kiến thẩm định của cơ quan, đơn vị có liên quan.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh cho hay việc xây dựng Luật Xây dựng (sửa đổi) nhằm tiếp tục thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện pháp luật về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi, thông thoáng, minh bạch, an toàn, chi phí tuân thủ thấp; tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng, tạo điều kiện thuận lợi, minh bạch, bình đẳng cho người dân và doanh nghiệp; khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn công tác đầu tư xây dựng; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.

Thực hiện tinh thần đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, dự thảo Luật Xây dựng (sửa đổi) chỉ quy định những vấn đề khung mang tính nguyên tắc và những nội dung thuộc thẩm quyền Quốc hội, vì vậy dự thảo Luật Xây dựng (sửa đổi) đã được sắp xếp, bố cục lại bao gồm 8 Chương và 97 Điều (giảm 71 điều so với luật hiện hành)

Các nội dung sửa đổi tập trung vào các nhóm vấn đề: Đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng; Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh; Phân định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước và trách nhiệm các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng.

Chuyển mạnh sang hậu kiểm gắn với kiểm tra giám sát

Thẩm tra dự thảo luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KHCN&MT) Nguyễn Thanh Hải khẳng định, Ủy ban cơ bản nhất trí với phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật. 

Để đảm bảo không chồng chéo với các Luật có liên quan, Ủy ban đề nghị rà soát các điều khoản, đảm bảo Luật chỉ tập trung quy định đối với hoạt động xây dựng, quản lý theo quy chuẩn, tiêu chuẩn; bảo đảm tinh thần “chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra giám sát” và phân biệt việc áp dụng luật đối với hai loại dự án là công trình đầu tư từ ngân sách nhà nước công trình đầu tư có vốn tư nhân.

Về chính sách khuyến khích trong hoạt động đầu tư xây dựng (Điều 11): Ủy ban KHCN&MT nhận thấy phạm vi hỗ trợ, khuyến khích đầu tư còn rộng, dễ chồng chéo với các luật khác và chưa rõ tiêu chí, điều kiện thẩm quyền khuyến khích. 

Vì vậy, theo cơ quan thẩm tra, cần nghiên cứu, mở rộng chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng áp dụng cho vùng dân tộc thiểu số và vùng khó khăn nói chung, không chỉ giới hạn ở địa bàn “đặc biệt khó khăn”; lồng ghép văn hóa, 54 dân tộc trong các chính sách và hoạt động phát triển xây dựng. 

Đối với yêu cầu bảo vệ môi trường trong hoạt động xây dựng quy định tại các Điều 5, 7, 11, 18… chỉ nêu một số nguyên tắc rất chung chưa quy định chính sách và những yêu cầu cụ thể, trong khi xây dựng là lĩnh vực phát thải lớn. Do đó, Ủy ban đề nghị nghiên cứu, bổ sung

Về hợp tác quốc tế trong hoạt động đầu tư xây dựng (Điều 12): Ủy ban đề nghị bổ sung, quy định rõ các hình thức hợp tác quốc tế (nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, tư vấn, thi công, giám sát, đào tạo...) và nguyên tắc bảo đảm an ninh, chủ quyền, tuân thủ pháp luật Việt Nam, đối với “hoạt động đầu tư xây dựng có yếu tố nước ngoài nhất là khi có yếu tố chuyển giao công nghệ hoặc sử dụng lao động, vật tư, thiết bị nước ngoài”.

Về lập, thẩm định dự án và quyết định đầu tư xây dựng (từ Điều 23 đến Điều 28): Ủy ban KHCN&MT cho rằng, dự thảo Luật mới chỉ quy định thẩm định đối với dự án đầu tư công, dự án PPP, dự án đầu tư kinh doanh, mà chưa làm rõ thẩm quyền thẩm định đối với nhóm “dự án đầu tư xây dựng khác” như vốn ODA, vốn vay ưu đãi… cần bổ sung để tránh khoảng trống pháp lý trong thực hiện. 

Bên cạnh đó, việc quy định cơ quan chuyên môn chỉ kiểm soát an toàn, phòng cháy, quy chuẩn kỹ thuật, còn các nội dung khác do chủ đầu tư chịu trách nhiệm là phù hợp chủ trương tăng cường hậu kiểm. Tuy nhiên cần quy định rõ giải pháp nâng cao năng lực và trách nhiệm của chủ đầu tư, bảo đảm chất lượng thẩm định cũng như chế tài xử lý đủ mạnh nếu chủ đầu tư gian dối trong việc tự thẩm định.

Về Quản lý thiết kế xây dựng triển khai sau khi dự án đầu tư được phê duyệt (từ Điều 29 đến Điều 31): Ủy ban KHCN&MT nhận thấy, việc bãi bỏ thủ tục thẩm định thiết kế sau thiết kế cơ sở, theo hướng cơ quan quản lý chỉ kiểm soát một lần, thể hiện chủ trương giảm tiền kiểm, tăng hậu kiểm, phân quyền và tiết kiệm chi phí.

Tuy nhiên, điều này tiềm ẩn rủi ro về chất lượng, an toàn công trình nếu năng lực tư vấn thẩm tra hạn chế. Do đó, cần quy định chế tài mạnh, cơ chế kiểm tra nghiệm thu chặt chẽ với những công trình có ảnh hưởng lớn đến an toàn cộng đồng và có biện pháp hạn chế rủi ro khi thay đổi thiết kế sau thẩm định.

Về giấy phép xây dựng (từ Điều 43 đến Điều 46, Chương III): Chủ nhiệm Ủy ban KHCN&MT Nguyễn Thanh Hải cho biết, Ủy ban cơ bản nhất trí với quy định miễn giấy phép xây dựng cho một số công trình, đây là nội dung mới, phù hợp chủ trương của Đảng, góp phần cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian và giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp trong hoạt động xây dựng. 

Tuy nhiên, việc quy định nguyên tắc, tiêu chí, danh mục các công trình được miễn giấy phép xây dựng trong các văn bản dưới Luật cần hết sức thận trọng đảm bảo an toàn, chính xác dễ áp dụng, tránh trình trạng công trình được miễn giấy phép xây dựng nhưng lại phát sinh nhiều thủ tục hành chính trung gian hay “giấy phép con”. 

Ngoài ra, khi công trình được miễn giấy phép xây dựng, sẽ không có căn cứ pháp lý xác định tài sản gắn liền với đất để cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu, do vậy cần bổ sung quy định này tại các luật có liên quan đảm bảo quyền lợi của người dân

Mặt khác, cần cân nhắc việc cho phép miễn giấy phép xây dựng và tự nghiệm thu đối với những công trình có yêu cầu cao về an toàn, hay tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn cộng đồng, mất an toàn về phòng cháy,.. Đối với những công trình này, nếu được miễn giấy phép xây dựng thì nghiên cứu việc cấp giấy phép sử dụng cho công trình trước khi chính thức đi vào hoạt động.

Hiện Luật chưa quy định rõ cơ chế xử lý đối với công trình đã được cấp phép hợp pháp nhưng vi phạm trong thi công (như sai thiết kế, thay đổi công năng, chiều cao, mật độ xây dựng... Ủy ban đề nghị bổ sung nguyên tắc xử lý các vi phạm này trong Luật, đảm bảo xử lý nghiêm, không để xảy ra hiện tượng phạt cho tồn tại hay hợp thức hóa sai phạm. 

Ngoài ra, Luật cần bổ sung làm rõ cơ chế cấp giấy phép trực tuyến để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân.

Về xây dựng công trình, quản lý chất lượng, nghiệm thu, bàn giao công trình xây dựng, quản lý chi phí đầu tư xây dựng và hợp đồng xây dựng (Chương IV và Chương V): Ủy ban đề nghị quy định rõ nguyên tắc xử lý đối với công trình không đạt yêu cầu khi hậu kiểm, như đình chỉ thi công, không cho phép đưa vào sử dụng, hoặc không được tiếp tục sử dụng. Đồng thời, cần xác định rõ trách nhiệm và cơ chế bồi thường thiệt hại giữa các bên liên quan (chủ đầu tư, nhà thầu chính, nhà thầu phụ, đơn vị thi công...) theo pháp luật dân sự. 

Ngoài ra, cần tăng cường hậu kiểm và quy định biện các biện pháp xử lý vi phạm bảo đảm tính răn đe, nếu hậu kiểm phát hiện gian dối trong tự thẩm định, để chủ đầu tư không dám vi phạm và không thể vi phạm, từ đó nâng cao chất lượng và an toàn công trình cũng như hiệu quả của chủ trương chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu hiểm.

Về chi phí xây dựng: Ủy ban KHCN&MT đề nghị có cơ chế linh hoạt đối với các dự án đặc thù như di dân, tái định cư, khai thác vật liệu xây dựng thông thường vì lý do đặc thù riêng nên khó áp dụng cứng các định mức chi phí hiện hành.

Về điều kiện năng lực hoạt động xây dựng (từ Điều 87 đến Điều 89, Chương VI): Dự án Luật hiện đã bỏ việc cấp chứng chỉ năng lực tổ chức, giảm điều kiện kinh doanh, đây là nội dung rất mới, trong khi các pháp luật khác như đấu thầu, bất động sản, kiến trúc, quy hoạch chưa sửa đổi đồng bộ, nên có thể gây bất cập trong triển khai thực hiện, có thể ảnh hưởng đến tiến độ dự án. Do đó, Ủy ban đề nghị rà soát xây dựng các văn bản hướng dẫn kịp thời ngay sau khi Luật có hiệu lực, nhằm bảo đảm khả thi và áp dụng ngay.

Nhật Nam