‘Bước chân di sản’ - Tôn vinh vẻ đẹp trang phục văn hóa Việt Nam và thế giới
(Chinhphu.vn) - Tối 11/10, Chương trình trình diễn thời trang“Bước chân Di sản” nằm trong khuôn khổ Lễ hội Văn hoá Thế giới đã diễn ra với những tiết mục biểu diễn ấn tượng, không chỉ là nơi tôn vinh sự đa dạng văn hoá, mà còn là nơi kết nối trái tim và lòng nhân ái không biên giới.
Thủ tướng: Lễ hội Văn hoá thế giới tại Hà Nội 'sẻ chia với đồng bào bị thiên tai'
(Chinhphu.vn) - Tối 10/10, tại Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội (Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự khai mạc Lễ hội Văn hoá thế giới tại Hà Nội lần thứ nhất.
Sơn Tùng M-TP ủng hộ 1,6 tỷ đồng giúp người dân vùng lũ vượt qua khó khăn
Trong những ngày qua, khi nhiều địa phương trên cả nước đang gồng mình khắc phục hậu quả nặng nề do mưa bão, tinh thần tương thân tương ái lại được lan tỏa mạnh mẽ từ cộng đồng.
Góp phần vào dòng chảy nghĩa tình đó, nam ca sĩ Sơn Tùng M-TP cùng công ty đã quyết định ủng hộ 1,6 tỷ đồng để hỗ trợ người dân đang chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi thiên tai.
Trên trang fanpage với hơn 14 triệu người theo dõi, Sơn Tùng cho biết: “Những trận mưa lũ vừa qua đã cướp đi không chỉ nhà cửa, tài sản, mà còn cả sự bình yên vốn có của những gia đình đang oằn mình gánh chịu hậu quả thiên tai.
Tùng hiểu rằng, phía sau những con số thiệt hại là những câu chuyện về sự mất mát và nỗi đau không dễ gì bù đắp.
Chính vì vậy, Tùng cùng tập thể M-TP Entertainment thực sự muốn gửi gắm sự đồng hành, dù nhỏ bé, như một lời sẻ chia chân thành, góp phần mang lại niềm tin và sức mạnh để cùng tất cả mọi người vượt qua giai đoạn thử thách này và sớm xây dựng lại cuộc sống mới …
Sau cơn mưa chắc chắn trời sẽ sáng, cầu mong bình an sẽ sớm trở lại với mọi nhà”.
Sơn Tùng ủng hộ 1,6 tỷ đồng ủng hộ đồng bào bị ảnh hưởng bởi bão lũ.
Hành động thiết thực và kịp thời này của Sơn Tùng M-TP không chỉ thể hiện trách nhiệm xã hội của một nghệ sĩ trẻ có sức ảnh hưởng lớn, mà còn cho thấy sự chung tay của cộng đồng nghệ sĩ trong các hoạt động nhân đạo vì cộng đồng.
Đặc biệt, đây không phải lần đầu tiên giọng ca “Cơn mưa ngang qua” góp mặt trong các hoạt động thiện nguyện.
Trước đó vào năm 2024, anh và công ty từng đồng hành cùng Quỹ Tấm lòng Việt trong dự án xây dựng điểm trường liên cấp tại thôn Làng Nủ (Lào Cai) – khu vực từng chịu thiệt hại nặng nề sau bão lịch sử Yagi.
Dự án không chỉ giúp các em học sinh vùng cao có điều kiện học tập tốt hơn, mà còn tạo tiền đề để địa phương phát triển lâu dài, bền vững.
Sơn Tùng M-TP, dù hiếm khi chia sẻ nhiều về hoạt động thiện nguyện cá nhân, nhưng qua từng dự án cụ thể, công chúng có thể thấy sự đầu tư và tâm huyết của nam ca sĩ và ekip trong việc mang lại giá trị tích cực cho xã hội.
Sự chung tay của các nghệ sĩ như Sơn Tùng M-TP không chỉ mang lại giá trị vật chất quan trọng trong lúc cấp bách, mà còn lan tỏa năng lượng tích cực, tạo động lực cho nhiều người trẻ khác cùng tham gia các hoạt động xã hội.
Trong bối cảnh thiên tai ngày càng phức tạp và khó lường, việc duy trì và khuyến khích những hành động như thế là vô cùng cần thiết.
Hành động đẹp của Sơn Tùng M-TP một lần nữa khẳng định vai trò của nghệ sĩ không chỉ trên sân khấu, mà còn trong trách nhiệm với cộng đồng và xã hội.
Chính sự lặng lẽ nhưng đầy hiệu quả ấy đã làm nên hình ảnh một nghệ sĩ trưởng thành, mang trái tim ấm áp phía sau ánh hào quang.
Định hướng phát triển xuất bản Việt Nam trong kỷ nguyên số
(Chinhphu.vn) - Kỷ nguyên số đánh dấu một cuộc cách mạng toàn diện trong cách con người kết nối, sáng tạo và vận hành xã hội; bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, kỷ nguyên số cũng đặt ra nhiều thách thức đan xen đối với ngành xuất bản, làm thay đổi thói quen đọc sách, phương thức phát hành cũng như thị hiếu của bạn đọc.
Du lịch TPHCM: Cầu nối quảng bá hình ảnh Việt Nam và mở rộng cơ hội hợp tác quốc tế
(Chinhphu.vn) - Đại hội đại biểu Đảng bộ TPHCM lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 sắp diễn ra, đánh dấu giai đoạn phát triển mới của Thành phố sau khi mở rộng địa giới hành chính. Trong bối cảnh đó, du lịch TPHCM được kỳ vọng tiếp tục khẳng định vai trò ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam năng động, thân thiện ra thế giới, đồng thời mở rộng cơ hội hợp tác, đầu tư và giao lưu quốc tế.
Hội chợ Mùa Thu 2025 góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam năng động, sáng tạo và hội nhập
(Chinhphu.vn) - Hội chợ Mùa Thu 2025 được xem là hoạt động văn hóa, thương mại quy mô lớn, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam năng động, sáng tạo và hội nhập.
Ngày hội Bánh dân gian Nam Bộ - An Giang sẽ khai mạc vào 18/10
.t1 { text-align: justify; }
Ngày 11/10, Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh An Giang cho biết sẽ tổ chức Ngày hội Bánh dân gian Nam Bộ - An Giang, kết hợp Hội chợ Xúc tiến du lịch, thương mại - sản phẩm OCOP lần thứ II năm 2025.
Sự kiện với chủ đề “Hương sắc An Giang”, sẽ diễn ra trong 9 ngày (từ 18 - 26/10), tại Khu đô thị Golden City, phường Long Xuyên, tỉnh An Giang. Lễ Khai mạc chính thức diễn ra vào lúc 18h ngày 18/10.
Ngày hội có quy mô hơn 300 gian hàng đến từ nhiều tỉnh, thành phố. Các gian hàng được bố trí thành những khu vực chuyên biệt, phục vụ khách tham quan từ 8h đến 22h hàng ngày (vào cổng tự do).
Trong đó, bao gồm Khu biểu diễn, trưng bày bánh dân gian; Khu trình diễn chế biến ẩm thực đặc trưng các vùng miền; Khu thương mại tổng hợp; Khu sản phẩm OCOP và sản phẩm đặc trưng của các tỉnh, thành phố; Khu triển lãm, giới thiệu, quảng bá du lịch An Giang và các địa phương.
Ngoài ra, sự kiện còn kết hợp nhiều hoạt động bên lề hấp dẫn như biểu diễn văn nghệ, trò chơi giải trí, kết nối giao thương giữa các doanh nghiệp, và khảo sát các khu điểm du lịch...
Đa dạng các loại bánh dân gian Nam Bộ. Ảnh: Yến Phương.
Theo Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh An Giang, sự kiện nhằm tôn vinh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa ẩm thực truyền thống Nam Bộ, thông qua các loại bánh dân gian đặc trưng của vùng sông nước.
Đây cũng là dịp giới thiệu, quảng bá hình ảnh con người, văn hóa và du lịch An Giang; góp phần kích cầu du lịch, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm; tạo không gian giao lưu, hợp tác giữa nghệ nhân, doanh nghiệp; thúc đẩy xúc tiến thương mại, du lịch, đầu tư, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của khu vực.
Sự kiện được kỳ vọng trở thành điểm nhấn văn hóa - du lịch đặc sắc, lan tỏa thông điệp về một An Giang năng động, thân thiện và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Tăng tốc thực hiện mục tiêu đón 25 triệu khách du lịch quốc tế năm 2025
(Chinhphu.vn) - Từ nay đến cuối năm không còn nhiều, để tăng tốc, bứt phá và phát triển khách du lịch quốc tế năm 2025, cần đưa ra một kịch bản cụ thể thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam nhằm đạt mục tiêu đón 25 triệu lượt khách du lịch quốc tế.
Hơn 12.200 thông tin xấu độc trên mạng bị gỡ bỏ
(Chinhphu.vn) - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xử lý hơn 12.200 thông tin xấu độc trong quý III/2025, cụ thể: Facebook đã chặn gỡ 10.713 bài viết vi phạm (tỷ lệ 96%); YouTube đã gỡ 705 video vi phạm (tỷ lệ 92%); TikTok đã chặn, gỡ bỏ 798 nội dung vi phạm (tỷ lệ 97%).
Nơi lưu dấu danh tướng mở cõi phương Nam
Nằm giữa Cù lao Phố, được bao bọc bởi sông Đồng Nai, đền Bình Kính là nơi tưởng nhớ Thượng đẳng thần Nguyễn Hữu Cảnh, người có công mở cõi phương Nam hơn 300 năm trước.
Ngôi đền linh thiêng
Từ ngoài vào chánh điện đền thờ qua 3 cửa chính. Hai bên cửa trên tường có khắc chìm câu đối chữ Hán nội dung nói về đền Bình Kính và công lao của Nguyễn Hữu Cảnh đối với vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai. Nội thất chánh điện chia làm 3 gian với 12 cột gỗ căm xe tròn, có đường kính 30cm, cao từ 5,5m đến 6,5m, trên các cột đều có treo liễn đối. Hoành phi treo trên xà ngang của mỗi gian. Liễn và hoành phi chất liệu gỗ, trên khắc chữ Hán, trang trí hoa văn sơn son thếp vàng, trải qua nhiều năm tháng vẫn giữ nguyên đường nét và màu sắc.
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được dân gian gọi là đình Bình Kính, xưa thuộc thôn Bình Hoành (Cù lao Phố), dinh Trấn Biên. Hiện đình thuộc ấp Bình Kính (Trấn Biên, Đồng Nai). Tương truyền, ngôi đình được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, tức khoảng sau thời gian Nguyễn Hữu Cảnh mất (năm 1700).
Người dân thôn Bình Hoành nhớ ơn vị quan có công lớn trong việc khai hoang, lập ấp, khai sáng vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai nên đã dựng đền thờ trên khu đất ông từng đặt Tổng hành dinh khi đi kinh lược xứ Đàng Trong.
Ban đầu, ngôi đền có quy mô nhỏ, cột gỗ, vách ván, mái lợp ngói âm dương. Sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi chép về đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh như sau: Ở phía Nam châu Đại Phố, thôn Bình Hoành, huyện Phước Chính, thờ vị khai quốc công thần Tráng Hoàn Hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Nguyên xưa ông phụng mệnh kinh lược đất Nông Nại (Đồng Nai), mở đất được ngàn dặm, chiêu mộ dân cư, đặt thành thôn ấp. Dân địa phương nhớ ơn lập đền thờ phụng.
Năm Tự Đức 1851, đền lâu năm bị mục nát, xói lở nên triều Nguyễn cấp 400 quan tiền, giao cho người dân cất lại ngôi đền phía sau đền cũ cách 10 trượng để thờ phụng. Nguyễn Hữu Cảnh có vai trò quan trọng đối với triều Nguyễn khi ông được coi là danh tướng mở cõi Nam Bộ với việc xác lập chủ quyền cho người Việt tại vùng đất Đồng Nai, Gia Định vào năm 1698. Kể từ thời điểm đó, miền đất này chính thức trở thành một đơn vị hành chính trực thuộc lãnh thổ Đại Việt, tức Việt Nam ngày nay.
Đền thờ của ông cũng chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Biên Hòa - Đồng Nai. Theo ghi chép của tác giả Lương Thúy Nga (Ban Quản lý di tích danh thắng Đồng Nai), sau lần xây lại năm 1851, mãi đến năm 1960, Ban quý tế đình đứng ra chủ trì việc trùng tu bằng cách mở thêm hành lang tiền sảnh ở phía trước chánh điện, rộng 2m.
Các cột ở tiền sảnh được đắp rồng cuốn mây. Cửa ra vào bằng gỗ lâu ngày hư mục được thay bằng cửa sắt kéo, mái ngói vẩy cá thay cho loại ngói âm dương trước đây. Kiến trúc của ngôi đền hiện nay khá hiện đại, đặc biệt là phần mặt tiền ngôi đền. Phần nội thất với các đồ thờ, hoa văn trang trí còn giữ được nét nghệ thuật cổ xưa.
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh xây theo lối kiến trúc dạng nhà chữ Đinh, mặt tiền quay theo hướng Tây - Nam, nhìn ra sông Đồng Nai. Trước đình có khoảng sân rộng đủ để tổ chức lễ hội thường niên.
Điểm nổi bật nhất của ngôi đền là ở phần chánh điện với mặt bằng hình vuông có diện tích 216m2, tường gạch ngoài tô đá rửa, nền cao 0,8m xây bằng đá xanh, lót gạch tàu. Bốn mái chảy nhẹ xuống, lợp ngói vẩy cá. Ở mặt trước mái gắn cặp rồng chầu bằng gốm pháp lam, đối xứng hai bên là cặp lân. Hàng cột ở hành lang mặt tiền đắp nổi rồng cuốn mây, biểu tượng quyền uy, sức mạnh và sự thịnh vượng trường tồn.
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh là một trong số ít những ngôi đền ở Biên Hòa còn lưu giữ được sắc phong dưới 2 triều Minh Mạng và Tự Đức, trong đó ghi rõ tên họ, chức tước vinh hiển, thứ bậc Thượng đẳng thần của Vua ban phong.
Đền thờ của Nguyễn Hữu Cảnh chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Biên Hòa - Đồng Nai.
Công cuộc mở cõi xứ Đàng Trong
Nguyễn Hữu Cảnh sinh năm 1650, quê gốc xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình (nay là xã Trường Ninh, tỉnh Quảng Trị). Cha ông là Tiết chế Chiêu Võ Hầu Nguyễn Hữu Dật - thuộc dòng dõi Nguyễn Trãi, danh tướng đương triều. Từ thuở thiếu thời, Nguyễn Hữu Cảnh được lưu truyền là người thông minh, học giỏi, văn võ song toàn. Ông theo cha tham gia nhiều trận mạc, lập công lớn, được chúa Nguyễn tin yêu phong cho chức Chưởng cơ.
Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698) Nguyễn Hữu Cảnh được chúa Nguyễn Phúc Chu cử vào kinh lược vùng đất mới phía Nam khi đó còn rất hoang vu, chưa có bộ máy hành chính. Cuộc kinh lược của ông được sách Đại Nam thực lục tiền biên, quyển 4 ghi lại có đoạn: Bắt đầu đặt phủ Gia Định, Chúa sai Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai đặt làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên; lấy xứ Sài Gòn dựng dinh Phiên Trấn.
Mỗi dinh đều đặt chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ, đội, thuyền, thủy bộ tinh binh và thuộc binh để hộ vệ. Mở rộng đất nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những dân xiêu dạt từ Bố Chánh trở vào Nam đến ở cho đông.
Thiết lập xã, thôn, phường, ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệ thuế tô dung, làm sổ đinh điền. Lại lấy người Thanh đến buôn bán ở Trấn Biên lập xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn lập xã Minh Hương. Từ đó người Thanh buôn bán đều thành dẫn hộ của ta...
Năm 1699, vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Thu cho đắp các lũy Bích Đôi, Nam Vang và Cầu Nam, cướp bóc dân buôn. Chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất lãnh quân 2 dinh Bình Khang và Trấn Biên đi dẹp loạn. Nguyễn Hữu Cảnh đem quân tiến vào nước Chân Lạp, đóng ở Ngư Khê, sai người đi do thám quân địch rồi chia quân theo các ngả.
Khi quân ta đến lũy Bích Đôi và Nam Vang, Nặc Ông Thu đem quân đón đánh. Nguyễn Hữu Cảnh đứng trên đầu thuyền, vung gươm, vẫy cờ thúc quân đánh gấp, tiếng súng vang như sấm. Nặc Ông Thu thua phải bỏ thành chạy. Nguyễn Hữu Cảnh tiến quân vào thành, trấn an dân chúng, không cho lính cướp bóc, lấy một vật gì của dân.
Ít lâu sau, Nặc Ông Thu đến cửa quân đầu hàng, xin nộp cống. Nguyễn Hữu Cảnh dẫn quân về đóng ở đồn Cây Sao (nay là cù lao Ông Chưởng, tỉnh An Giang) rồi làm tờ điệp báo tin thắng trận về triều. Giữa lúc đó ông bị nhiễm bệnh dịch, 2 chân tê bại, ăn uống không được. Ông cho rút quân về, đến Sầm Giang thì mất, nhằm ngày 16/5 Âm lịch năm 1700, hưởng thọ 51 tuổi.
Thi hài ông được đưa về dinh Trấn Biên để tạm. Chúa rất thương tiếc sắc tặng là “Hiệp tán công thần, thụy Trung Cần”. Sau này, ông được truy phong Thượng đẳng công thần đặc trấn phủ quốc Chưởng cơ, tước Lễ Thành hầu.
Người Cao Miên lập miếu thờ ông ở đầu châu Nam Vang. Nơi cù lao ông đóng quân, nhân dân cũng lập đền thờ được mệnh danh là cù lao Ông Lễ. Chỗ đặt quan tài ở dinh Trấn Biên cũng lập miếu thờ, các miếu đều linh ứng.
Tượng Nguyễn Hữu Cảnh tại khu lưu niệm đền Bình Kính.
Di sản của Nguyễn Hữu Cảnh
Công cuộc khai mở của Thượng đẳng công thần Nguyễn Hữu Cảnh bước đầu đạt được kết quả to lớn với đất đai rộng ngàn dặm, dân được 4 vạn hộ, đồng thời đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình Nam tiến của người Việt.
Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh không chỉ được biết đến như là người xác lập chủ quyền của nước Việt lên vùng đất mới phía Nam, hoàn thành tốt nhiệm vụ được chúa Nguyễn giao phó, mà còn ở tài năng và nhân cách của ông. Trên vùng đất mới có nhiều tộc người cư trú với các dòng văn hóa khác nhau, ông đã có cái nhìn và biện pháp giải quyết kịp thời, hợp lý những vấn đề trong mối quan hệ giữa các nhóm dân cư, tộc người cư ngụ đan xen nhau.
Bên trong khu tưởng niệm Nguyễn Hữu Cảnh.
Riêng đối với công cuộc tiến quân vào Nam Vang dẹp loạn Nặc Ông Thu, Nguyễn Hữu Cảnh đã không sa lầy vào việc “bình định” mà chỉ thi hành những chính sách nhằm làm yên ổn vùng đất phương Nam, cách ứng xử đầy tính nhân văn đó đã cảm hóa được Nặc Ông Thu tự ra hàng.
Do đó, Nguyễn Hữu Cảnh là nhân vật hiếm có không những được người Việt, mà còn cả người Hoa, người Khmer lập đền thờ trên đất Nam Bộ. Ngay trên đất Nam Vang, nhân dân địa phương cũng lập đền thờ ông, dù Nguyễn Hữu Cảnh chỉ một lần tới đây. Hằng năm vào ngày 16/5 Âm lịch, tại đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh diễn ra lễ giỗ ông rất long trọng với nghi thức lễ Kỳ Yên truyền thống được đông đảo gia tộc và nhân dân địa phương tham dự.
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh ở Đồng Nai đã được xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1991. Năm 1998, nhân kỷ niệm 300 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai, chính quyền và nhân dân địa phương đã xây dựng nhà bia trong khuôn viên di tích đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh. Nhà bia nhằm lưu truyền công đức các bậc tiền nhân đã có công khai phá, xây dựng Đồng Nai. Ngày 11/6/2025, Lễ giỗ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi danh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Báu vật nghìn năm dưới chân núi Chương Sơn
Ngôi cổ tự này hiện lưu giữ tượng Phật A Di Đà từ thời Lý, mang giá trị lịch sử và nghệ thuật đặc biệt quý hiếm.
Dấu tích lịch sử qua các triều đại
Chùa Ngô Xá, tên chữ là Phi Lai tự, nằm dưới chân núi Chương Sơn. Đây là ngôi cổ tự có lịch sử hơn 9 thế kỷ, được khởi dựng từ thời nhà Lý, dưới triều vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127). Giai đoạn này, đạo Phật có ảnh hưởng lớn trong đời sống xã hội và trở thành quốc giáo của nước Đại Việt thế kỷ XI - XII.
Chùa xưa được xây dựng trên đỉnh núi. Văn bia niên đại Cảnh Trị thứ 8 (1670) tại chùa Ngô Xá ghi nhận: “Đầu triều Lý có ba bà Hoàng hậu xây chùa thờ Phật, xung quanh có 8 tòa nằm trên đỉnh núi. Trung tuần tháng 2 năm Đinh Hợi (1107), nhà vua ngự tới thăm chùa này”.
Trên đỉnh núi Chương Sơn xưa kia còn có Bảo tháp, được xây dựng trong 9 năm (1108 - 1117). Sự kiện xây tháp Chương Sơn được ghi trong Đại Việt Sử ký Toàn thư: “Hội Tường Đại Khánh năm thứ 8, vua Lý Nhân Tông ngự đến núi Chương Sơn để khánh thành Bảo tháp Vạn Phong Thành Thiện”.
Trải qua nhiều biến thiên, ngôi chùa và Bảo tháp Chương Sơn đã bị giặc Minh phá hủy hoàn toàn vào năm 1407.
Giai đoạn 1667 - 1669, dưới thời Chúa Trịnh, chùa được tái thiết nhờ công đức của bà Lương Thị Ngọc Vinh - vợ Tây Định Vương Trịnh Tạc, cùng chị gái là Lương Thị Ngọc Phú. Sau khi chùa được xây dựng lại chân núi phía Tây, người dân địa phương đã đưa một số bảo vật còn sót lại của phế tích Chương Sơn xuống chùa để thờ cúng.
Đến thời nhà Nguyễn, Thiền sư Thiềm Quang (quê ở Thiêm Lộc, xã Yên Chính, huyện Ý Yên cũ, nay là xã Phong Doanh, tỉnh Ninh Bình) về tu hành, đã tu sửa lại Tiền đường, Hậu điện, mời thợ tô son thếp vàng lại tượng pháp và di chuyển ngôi chùa từ trên đỉnh núi xuống phía Nam sườn núi Chương Sơn như hiện nay.
Đình - chùa Ngô Xá là công trình tiêu biểu phản ánh sự dung hợp tín ngưỡng của người Việt, nơi hiện diện đồng thời thờ Thiên thần, Nhiên thần, Nhân thần và Phật. Tại chùa, ngoài thờ Phật còn phối thờ Nữ thần Sơn Trương Thần Nữ, trong khi đình thờ các vị Thần núi theo truyền thuyết dân gian.
Hiện nay, đình - chùa Ngô Xá tọa lạc trên khu đất rộng 1.400 m2 với bố cục từ ngoài vào trong gồm: Tam quan, nghi môn, sân, nhà Tổ, phủ Mẫu và công trình kiến trúc trung tâm.
Tòa tiền đường chùa được dựng vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909), mang hình chữ “Đinh” với bái đường 3 gian 2 chái, mái lợp ngói nam, trang trí họa tiết cánh sen. Tòa Tam Bảo 3 gian được xây theo kiểu giao mái bắt vần.
Chùa Ngô Xá không chỉ là nơi thờ tự linh thiêng mà còn là dấu ấn nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương trong thời kỳ cách mạng kháng chiến. Nơi đây từng là căn cứ cách mạng trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Vào các năm 1928 - 1929, chùa là cơ sở hoạt động của Chi hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội tại huyện Ý Yên cũ. Đến năm 1970, nơi đây trở thành kho vũ khí của Huyện đội Ý Yên và đồng thời là địa điểm tổ chức các lớp giáo dục tiểu học cho học sinh xã Yên Lợi (nay là xã Tân Minh).
Bảo vật quốc gia Tượng Phật A Di Đà thời Lý tại chùa Ngô Xá.
Đại hùng bảo điện - nơi lưu giữ pho tượng Phật nghìn năm.
Bảo vật quốc gia trong ngôi chùa cổ
Hiện nay, chùa Ngô Xá vẫn lưu giữ một số bảo vật thời Lý, đặc biệt là pho tượng A Di Đà bằng đá cát nguyên khối màu xám, bề mặt thô ráp.
Trong một lần khảo sát, các nhà khảo cổ vô tình gõ tay vào pho tượng và nghe âm thanh trầm đục vang lên như gõ vào đá. Khi bóc lớp sơn son thếp vàng bên ngoài, họ phát hiện bên trong là pho tượng đá xám, chạm khắc tinh xảo, hình dáng còn khá nguyên vẹn.
Tượng có chiều cao tổng thể 2 m, gồm hai phần: tượng và bệ tượng. Phần tượng Phật cao 0,92 m, rộng 0,72 m; phần bệ cao 1,08 m, đường kính bệ sen 0,76 m.
Tượng được tạc nguyên khối, phủ sơn son thếp vàng, thể hiện Đức Phật trong tư thế thiền định, hai đầu gối mở rộng, thân hơi rướn về phía trước. Đầu và thân tượng ghép bằng mộng, có thể tháo rời. Đầu tượng kết tóc xoắn ốc, vầng trán rộng mở, biểu trưng trí tuệ sáng ngời và tuổi thọ vô lượng. Khuôn mặt hình trái xoan, mắt khép hờ nhìn xuống, sống mũi thẳng, môi mím nhẹ, cổ cao ba ngấn. Đặc biệt, tai tượng gọn gàng như người thật.
Thân tượng thon gọn, bụng mảnh dẹt, khoác pháp y gồm hai lớp áo mỏng ôm sát cơ thể, xếp nhiều nếp. Phần thân liền khối với cổ bệ hình tròn dẹt, xung quanh cổ bệ chạm nổi hai con sư tử trong tư thế nhìn nghiêng, ngậm viên ngọc, đuôi chụm lại nâng hình lá đề.
Bệ tượng cao 1,08 m, gồm hai phần. Phần trên là đài sen, hình tròn dẹt với hai lớp cánh sen nổi ôm sát nhau. Lớp cánh trên to mập, xen kẽ các cánh nhỏ; lớp cánh dưới dài, nhỏ, bố trí so le với lớp trên. Trên bề mặt cánh sen, đôi rồng chầu chạm nổi, thân mềm mại, đầu ngẩng cao, cùng các chi tiết hoa văn chạm đục dày đặc, tinh xảo.
Phần chân bệ có hình bát giác, khối chóp cụt, gồm hai bộ phận ghép. Nửa trên sát cổ bệ chạm nổi một bông sen hai lớp cánh úp, tiếp đến là các tầng bát giác giật tam cấp, mặt lớn xen mặt nhỏ; mặt đứng chạm đôi rồng đuổi nhau, mặt nằm chạm hoa cúc dây hình sin. Nửa dưới có đế phẳng, thân chia hai tầng, trang trí hoa văn sóng nước, thể hiện sự tinh xảo và hài hòa trong bố cục kiến trúc.
Theo các nhà khảo cổ, tượng Phật chùa Ngô Xá là một trong hai tượng Phật bằng đá thời Lý còn nguyên vẹn tại Việt Nam. Pho tượng không chỉ mang giá trị đặc biệt về nghệ thuật điêu khắc, mà còn là minh chứng quan trọng để nghiên cứu lịch sử, kiến trúc và vị thế của Bảo tháp Chương Sơn trong dòng chảy Phật giáo thời Lý. Đồng thời, đây là cơ sở khoa học để so sánh mỹ thuật thời Lý với các giai đoạn trước và sau, góp phần làm sáng rõ giá trị nghệ thuật và văn hóa của một thời kỳ rực rỡ trong lịch sử dân tộc.
Bệ tượng đá chạm khắc tinh xảo từ thế kỷ XI.
Hoa văn rồng chầu tinh xảo trên bệ tượng thể hiện nghệ thuật thời Lý.
Để bảo tồn giá trị quý báu của ngôi chùa và pho tượng Phật A Di Đà, những năm gần đây, chính quyền địa phương triển khai nhiều giải pháp trùng tu, tôn tạo di tích. Các hạng mục xuống cấp được kiểm tra kỹ lưỡng, tu sửa theo nguyên tắc giữ gìn hiện trạng, sử dụng vật liệu truyền thống phù hợp kiến trúc gốc.
Đồng thời, khuôn viên chùa được chỉnh trang, đường đi, sân vườn, bờ tường quanh chùa được củng cố, vừa bảo đảm an toàn, vừa tạo không gian hài hòa, trang nghiêm phục vụ sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân.
Ngoài trùng tu kiến trúc, công tác bảo vệ pho tượng Phật A Di Đà cũng được đặc biệt chú trọng. Ban quản lý di tích thường xuyên phối hợp với các trường học trong và ngoài xã tổ chức lớp học ngoại khóa, giới thiệu lịch sử hình thành, giá trị di tích và các bảo vật, cổ vật liên quan, nhằm nâng cao nhận thức về việc bảo tồn di sản văn hóa.
Với giá trị đặc biệt, quý hiếm, tượng Phật chùa Ngô Xá đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia theo Quyết định số 2599/QĐ-TTg ngày 30/12/2013. Trước đó, năm 2012, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch xếp hạng cụm di tích Đình – chùa Ngô Xá, chùa Nề và phế tích khảo cổ Bảo tháp Chương Sơn là Di tích cấp quốc gia.
Hòa Minzy ủng hộ 500 triệu đồng, chung tay hỗ trợ quê hương Bắc Ninh vượt mưa lũ
Trận mưa lũ vừa qua đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều địa phương trên cả nước, trong đó có Bắc Ninh. Hàng trăm hecta hoa màu bị ngập úng, nhiều tuyến đê điều bị đe dọa nghiêm trọng, hàng nghìn người dân phải di dời khỏi khu vực nguy hiểm.
Trong bối cảnh đó, tinh thần “tương thân tương ái” một lần nữa được lan tỏa mạnh mẽ.
Mới đây, ca sĩ Hòa Minzy - người con của quê hương Bắc Ninh đã quyết định ủng hộ 500 triệu đồng nhằm chung tay giúp đỡ bà con nơi đây vượt qua giai đoạn khó khăn.
Được biết, số tiền này sẽ được chuyển trực tiếp đến Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bắc Ninh để hỗ trợ người dân các khu vực chịu thiệt hại nặng trong đợt mưa lũ vừa qua.
Cô chia sẻ: “Ôm quê hương Bắc Ninh của con vào lòng, cháu Hoà xin được chia sẻ những khó khăn mất mát mà bà con tỉnh nhà đang phải trải qua. Mong tất cả người dân tỉnh Bắc Ninh cũng như khắp mọi miền Tổ Quốc được bình an”.
Ngay dưới những dòng chia sẻ của Hòa Minzy, nhiều người hâm mộ đã để lại bình luận bày tỏ sự ngưỡng mộ trước tấm lòng cao đẹp của nữ ca sĩ khi cho rằng: "Tuyệt vời quá em ơi! Chị rất ngưỡng mộ về em!", "Nợ có thể chưa trả hết nhưng luôn sẵn lòng ủng hộ bà con tỉnh nhà và tỉnh khác, chúc bạn luôn xinh đẹp mạnh khỏe và bình an nhé", "Tuyệt vời quá Hoà ơi rất ngưỡng mộ 1 người con gái nhỏ nhắn xinh đẹp nhưng rất giàu lòng nhân ái!" hay "Bà con Bắc Ninh rất cảm động trước tình cảm của Hòa"...
Hòa Minzy ủng hộ 500 triệu đồng giúp đỡ đồng bào Bắc Ninh vượt qua bão lũ.
Không chỉ dừng lại ở hành động thiết thực về mặt vật chất, trước đó Hòa Minzy cũng đã có mặt tại đê Đẩu Hàn – một trong những điểm nóng đang căng mình chống chọi với lũ tại Bắc Ninh để thăm hỏi, động viên tinh thần người dân cũng như lực lượng chức năng đang túc trực ngày đêm bảo vệ đê điều, đảm bảo an toàn cho khu vực dân cư.
Bên cạnh đó, không chỉ trong đợt mưa lũ lần này, Hòa Minzy còn được biết đến là nghệ sĩ tích cực trong các hoạt động thiện nguyện suốt nhiều năm qua.
Từ việc hỗ trợ người dân miền Trung trong các đợt bão lũ, quyên góp xây cầu, tài trợ giáo dục, xây nhà tình thương cho bà con nghèo… Hòa Minzy luôn âm thầm đóng góp và lan tỏa năng lượng tích cực đến cộng đồng.
Hành động đẹp và đầy trách nhiệm của Hòa Minzy đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ khán giả và cộng đồng mạng. Nhiều người không khỏi xúc động khi chứng kiến hình ảnh nữ ca sĩ lội bùn, trực tiếp có mặt để sẻ chia khó khăn cùng người dân.
Không chỉ là một nghệ sĩ thành công, Hòa Minzy còn cho thấy cô là người có trái tim ấm áp, luôn hướng về quê hương và cộng đồng.
Những hành động sẻ chia như của Hòa Minzy không chỉ giúp người dân có thêm nguồn lực để phục hồi mà còn tiếp thêm hy vọng và niềm tin vào tình người.
Với tinh thần đoàn kết và sẻ chia đang lan tỏa mạnh mẽ, hy vọng rằng Bắc Ninh cùng các tỉnh thành khác trên cả nước sẽ sớm vượt qua giai đoạn khó khăn, ổn định cuộc sống và sản xuất.
Du Lâm: Nổi danh đất học Kinh Bắc xưa
Trên dải đất ven sông Đuống, thuộc xã Đông Anh (Hà Nội), làng Du Lâm từ lâu đã được nhắc tới như một vùng quê giàu truyền thống văn hiến. Tư liệu lịch sử và truyền thuyết dân gian đều cho rằng, Du Lâm - Mai Lâm là nơi phát tích của Hoàng hậu Phạm Thị Ngà - mẹ vua Lý Công Uẩn.
Vùng đất này không chỉ được coi là “chốn tổ” ngoại của vương triều nhà Lý mà còn là không gian văn hóa giàu truyền thống, nơi lưu giữ những dấu tích, giai thoại về các nhà khoa bảng.
Đất học của vùng Kinh Bắc xưa
Không chỉ là quê ngoại của vua Lý Công Uẩn, từ bao đời nay, Du Lâm còn là mảnh đất sản sinh nhiều bậc hiền tài, danh sĩ, những người đỗ đạt trong khoa cử và cả các trí thức hiện đại có nhiều cống hiến cho đất nước. Trải qua bao biến thiên lịch sử, làng vẫn giữ nguyên cốt cách của một vùng quê hiếu học, nơi chữ nghĩa, đạo lý và khát vọng vươn lên bằng tri thức luôn được coi trọng.
Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Tân Mùi (1691) ghi danh đại khoa Trần Danh Đống.
Tên gọi Du Lâm vốn đã gắn liền với vùng Đông Ngàn - Kinh Bắc xưa, vùng đất nổi tiếng “địa linh nhân kiệt”. Từ thế kỷ XVII trở đi, tên tuổi các bậc danh sĩ Du Lâm đã xuất hiện trên chính trường và văn đàn, để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử dân tộc. Cũng bởi vậy, khi nhắc đến Du Lâm, người ta thường gọi thêm mỹ từ “đất học” như một sự khẳng định và tôn vinh truyền thống hiếu học của vùng quê này.
Theo tư liệu nghiên cứu của PGS.TS Bùi Xuân Đính (Viện Dân tộc học) cùng nhiều thư tịch cổ, trước thế kỷ XIX, vùng đất xã Mai Lâm xưa được chia thành nhiều thôn xã nhỏ như Du Lâm, Hoa Lâm (còn gọi là Danh Lâm), Lộc Hà, Mai Hiên… cùng thuộc tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn (Bắc Ninh).
Riêng Du Lâm khi đó bao gồm ba thôn: Du Nội, Du Ngoại và Du Bi. Qua nhiều lần thay đổi địa giới hành chính, đến năm 1961, xã Mai Lâm được thành lập và nhập về huyện Đông Anh, Hà Nội. Như nhiều làng quê Kinh Bắc, Du Lâm mang trong mình không gian văn hóa đặc trưng với đình, chùa, giếng nước, sân đình, bến sông… tất cả tạo nên một cấu trúc làng cổ truyền thống, lưu giữ bản sắc qua nhiều thế hệ.
Đình làng từ lâu là nơi hội tụ các sinh hoạt cộng đồng, nơi diễn ra lễ hội mùa xuân, tế lễ, rước kiệu, gắn kết đời sống tinh thần của người dân. Ở Du Lâm, đình làng thờ ba vị thần: Phật Kim (tức Lý Chiêu Hoàng) - vị vua cuối cùng của triều Lý; Trần Cảnh (tức Trần Thái Tông) - vị vua đầu tiên của triều Trần; và “Trần triều trung quân Đốc khánh đại vương” Đức Thái tử Hoài Đức vương - người từng theo Trần Hưng Đạo đánh giặc Nguyên - Mông, lập nhiều chiến công.
Để nói Du Lâm là “đất học”, trước hết phải nhắc đến truyền thống khoa bảng. Trong các thế kỷ XVIII - XIX, làng đã sản sinh nhiều nho sĩ uyên thâm, đỗ đạt cao, bước vào hàng ngũ quan lại triều đình và trở thành những trí thức lớn của dân tộc. Song, điều làm nên bản sắc hiếu học của Du Lâm không chỉ nằm ở vài tên tuổi nổi danh mà ở chính nếp sống của cả cộng đồng.
Mỗi dòng họ, mỗi gia đình đều coi việc học là con đường tiến thân, là cách đổi thay vận mệnh. Ngay cả trong những giai đoạn binh đao loạn lạc hay khi đất nước trải qua biến động, người Du Lâm vẫn giữ trọn niềm tin vào chữ nghĩa, gửi gắm con em tiếp tục theo đuổi việc học hành.
Tinh thần hiếu học ấy còn gắn liền với phong tục thờ Khổng Tử và các bậc tiên hiền tại đình làng. Ngày xưa, những buổi bình văn, lớp học chữ Hán mở ngay tại nhà các nho sinh trở thành “trường học cộng đồng” của dân làng. Từ đó, lớp lớp thế hệ tiếp nối, hun đúc nên một truyền thống học hành bền bỉ, lan tỏa và trường tồn đến hôm nay.
Thạch trụ ở miếu thờ bà Phạm Thị Ngà - mẹ vua Lý Công Uẩn.
Dòng họ khoa bảng
Nghiên cứu của PGS.TS Bùi Xuân Đính cho thấy, Du Lâm xưa vốn nổi tiếng với truyền thống hiếu học và khoa bảng. Trong đó, làng Du Bi từng có Trần Danh Đống đỗ Tiến sĩ năm 1691. Theo văn bia khoa thi Tân Mùi (1691) do Cẩn sự lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Dương Bật Trạc vâng sắc soạn, Trần Danh Đống sinh năm 1656 (một số tài liệu ghi ông tên Trần Văn Lương), quê xã Hoa Lâm, huyện Đông Ngàn. Ông làm quan đến chức Lại khoa Cấp sự trung, để lại tiếng thơm trong sử sách.
Làng Du Nội cũng nổi bật với ba người đỗ đại khoa: Nguyễn Công Hoàn, Nguyễn Tư Giản và Nguyễn Kham. Trong đó, Nguyễn Công Hoàn đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Tân Sửu (1721). Văn bia đề danh Tiến sĩ của khoa thi này còn ghi rõ:
Chân dung Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản. Ảnh: Tư liệu gia đình
“Đề sách vấn hỏi về đạo trị nước. Sáng hôm sau, quan đọc quyển, nâng quyển tiến đọc. Hoàng thượng đích thân xem xét, định thứ bậc cao thấp. Khi loa truyền xướng tên, Bộ Lễ rước bảng vàng treo trước cửa nhà Thái học. Người xem chen vai nối gót, áo mũ đầy đường. Ai nấy đều nói từ hồi Trung hưng tới nay, khoa mục được người, thì khoa này là thịnh. Mùa xuân năm sau, ân điển được ban hành, ban áo mũ phẩm phục để vẻ vang, cho dự yến Quỳnh, thưởng hoa bạc. Hoàng thượng tỏ lòng ưu ái ban bạc ròng, hậu đãi để dựng nhà cửa chốn che chở. Theo thứ bậc mà định tước vị, ân điển chất chồng”.
Đáng chú ý, bia Tiến sĩ khoa Tân Sửu (1721) là tấm bia duy nhất ngoài việc ghi quê quán còn ghi cả địa chỉ nhập tịch. Văn bia cho biết rõ: Nguyễn Công Hoàn, người xã Du Lâm, huyện Đông Ngàn, là nho sinh trúng thức. Đây là minh chứng khẳng định vị thế khoa bảng của vùng đất hiếu học Du Lâm trong lịch sử.
Đặc biệt, dòng họ Nguyễn ở Du Lâm vốn có gốc từ Hoàng giáp Nguyễn Thực (đỗ năm 1595) quê làng Đóm (Vân Điềm, xã Vân Hà, cùng huyện Đông Anh ngày trước) chuyển cư về. Từ nền tảng ấy, năm thế hệ kế tiếp đều nối nghiệp cha ông trong học hành, khoa cử, tạo nên một truyền thống rực rỡ.
Người đầu tiên là Nguyễn Án. Sinh ra trong gia đình khoa bảng nhưng gặp cảnh sa sút và thời cuộc cuối Lê đầy biến loạn, con đường học hành của ông dang dở. Ban đầu, Nguyễn Án ở nhà dạy học. Đến năm Gia Long thứ tư (1805), ông được triệu ra làm Tri huyện Phù Dung (Hưng Yên) nhưng chẳng bao lâu đã cáo quan về ẩn dật ở quê.
Hai năm sau, vào năm Gia Long thứ sáu (1807), khi triều Nguyễn mở khoa thi Hương đầu tiên ở trấn Kinh Bắc, Nguyễn Án đi thi, đỗ Cống sinh (Cử nhân) và được bổ nhiệm làm Tri huyện Tiên Minh (Hải Phòng). Không chỉ là một nho sĩ, Nguyễn Án còn để lại dấu ấn trong văn học với tác phẩm “Tang thương ngẫu lục” (soạn cùng Phạm Đình Hổ), phản ánh sinh động đời sống văn hoá - xã hội Việt Nam buổi giao thời ba triều đại Lê - Trịnh - Tây Sơn.
Nguyễn Án cùng Phạm Đình Hổ và nữ sĩ Hồ Xuân Hương được hậu thế xưng tụng là “Tam tài tử”. Con đường học vấn của ông còn được nối dài bởi hai người con: Nguyễn Tống Siêu và Nguyễn Tri Hoàn, cùng đỗ Hương cống năm 1813 - trở thành thế hệ thứ hai thành đạt của dòng họ.
Đến thế hệ thứ ba, họ Nguyễn ở Du Lâm thêm phần rạng rỡ với ba người con trai của Nguyễn Tri Hoàn: Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Ý và Nguyễn Năng Ái. Chính họ là những gương mặt tiêu biểu, góp phần đưa truyền thống khoa bảng của Du Lâm lên một tầm cao mới.
Chảy mãi mạch nguồn chữ nghĩa
Trong số những nhà khoa bảng của làng Du Lâm, nổi bật nhất là Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890) - vị quan trải gần 40 năm phụng sự triều Nguyễn, từng giữ nhiều chức vụ trọng yếu dưới 7 đời vua.
Ngay từ thuở nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, ham học chữ. Mồ côi cha mẹ sớm (5 tuổi mất mẹ, 11 tuổi mất cha), Nguyễn Tư Giản phải nương nhờ ông bà ngoại bên ngoài Cửa Bắc thành Hà Nội, gần hồ Trúc Bạch.
Thuở ban đầu, ông theo học anh cả là Nguyễn Đức Hiến - người đỗ Giải nguyên, làm Đốc học. Sau đó, ông tiếp tục được rèn giũa dưới sự chỉ dạy của ông nghè Vũ Tông Phan ở thôn Tự Tháp. Năm 19 tuổi, ông bước vào khoa thi nhưng không thành, ba năm sau mới đỗ Cử nhân tại trường Hà Nội, rồi năm kế tiếp giành học vị Tiến sĩ đệ nhị giáp (Hoàng giáp) khoa Giáp Thìn (1844) dưới triều Thiệu Trị.
Vinh quy bái tổ xong, Nguyễn Tư Giản vào Huế nhận chức Tu soạn Viện Hàn lâm, được giao biên tập bộ Thiệu Trị văn quy và được vua cho đổi tên từ Văn Phú thành Định Giản. Ông nổi danh với tài trị thủy, từng dâng bản “Phương lược trị thủy Nhị Hà” gồm 10 điểm trình bày cụ thể, được vua Tự Đức chuyển xuống các bộ liên quan bàn thảo thi hành.
Trong thời gian làm Tham biện quân vụ Hải - Yên, dưới quyền Tổng thống quân vụ Trương Quốc Dụng, có lần quân nổi dậy kéo đến uy hiếp huyện Cẩm Giàng và tỉnh Hải Dương. Vì sự việc này, ông bị đình thần kết tội bất lực và nhà vua chấp thuận cho bãi chức.
Sau khi bị bãi chức, Nguyễn Tư Giản lui về dạy học ở làng Đôn Thư khoảng một năm, rồi chuyển ra Hà Nội dạy tại phố Hàng Bồ thêm hai năm. Từ đây, ông lại được triệu vào Huế, giữ chức Tu soạn Viện Hàn lâm, sau thăng Thị độc học sĩ tại lầu Kinh Diên.
Năm Đinh Mão (1867), ông được phong hàm Hồng lô tự khanh. Một năm sau, tháng 6 năm Mậu Thìn (1868), Nguyễn Tư Giản được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh. Trong chuyến đi, ông không chỉ hoàn thành trọng trách ngoại giao mà còn học hỏi nhiều kiến thức mới.
Trở về nước, cùng với các trí thức đương thời như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Bùi Viện, ông dâng sớ lên vua Tự Đức, đề xuất chương trình canh tân tự cường: mở rộng bang giao với phương Tây, đưa học sinh ra nước ngoài học kỹ nghệ mới… Tiếc rằng những kiến nghị ấy không được chấp thuận.
Không chỉ nổi danh là bậc hiền tài, Nguyễn Tư Giản còn truyền được nếp học cho nhiều thế hệ sau. Đời thứ tư của dòng họ Nguyễn Du Lâm có bốn người con của ông đỗ đạt: Nguyễn Kham (Tiến sĩ năm 1871), Nguyễn Cơ, Nguyễn Tấn Cảnh, Nguyễn Tốn Khải (lần lượt đỗ Cử nhân các năm 1876, 1886, 1900). Nguyễn Cẩn - con trai Nguyễn Năng Ái - cũng đỗ Cử nhân năm 1879. Sang đời thứ năm, Nguyễn Doãn Thạc (con trai Nguyễn Cơ) tiếp nối truyền thống, đỗ Cử nhân năm 1897.
Chậu tắm bằng đá được cho là hiện vật tắm cho Lý Công Uẩn khi còn bé.
Du Lâm không chỉ được biết đến với những bậc hiền tài khoa bảng, mà còn nổi tiếng bởi nếp sống văn hóa làng đậm đà truyền thống. Hằng năm, vào tháng Ba âm lịch, lễ hội làng được tổ chức long trọng với nghi thức rước nước từ dòng sông, rước kiệu quanh làng, tế lễ ở đình. Tiếng trống, tiếng chiêng rộn rã hòa cùng dòng người nô nức, tạo nên bầu không khí hội làng tưng bừng, nơi cộng đồng thêm gắn kết và cũng là dịp để tưởng nhớ công đức tổ tiên, tiền nhân.
Các trò chơi dân gian được duy trì, góp phần làm lễ hội thêm sinh động, đồng thời trở thành môi trường giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, giúp họ hiểu sâu hơn về cội nguồn.
Đình, chùa, miếu mạo ở Du Lâm từng lưu giữ nhiều hoành phi, câu đối ca ngợi sự hiếu học, khuyến khích con em rèn chí. Không ít gia đình trong làng vẫn giữ được những bức đại tự quý như “Hiếu học”, “Trung hiếu”, “Gia phong” - những giá trị tinh thần đã ăn sâu vào tâm thức cộng đồng.
Ngày nay, Du Lâm thuộc xã Đông Anh mới - một vùng đất đang chịu tác động mạnh mẽ của đô thị hóa. Dẫu vậy, truyền thống của vùng đất học lâu đời vẫn được trân trọng và phát huy. Các thôn làng đều duy trì phong trào khuyến học, lập quỹ khuyến tài, tổ chức lễ tuyên dương học sinh giỏi hằng năm. Không ít gia đình nơi đây có hai, ba thế hệ cùng theo nghề giáo, y bác sĩ, kỹ sư - minh chứng sống động cho câu nói “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”.
Danh xưng “đất học Du Lâm” không phải là ngẫu nhiên, mà được hun đúc từ hàng trăm năm qua, từ những thế hệ trọng chữ nghĩa, từ dấu ấn của các bậc khoa bảng, danh sĩ. Truyền thống ấy vẫn đang tiếp nối trong bối cảnh hiện đại, khi lớp trẻ Du Lâm liên tục đạt thành tích, khẳng định vị thế tri thức của quê hương.
Trong dòng chảy lịch sử Hà Nội, Du Lâm chính là một viên gạch góp phần dựng xây nền văn hiến bằng sức mạnh văn hóa và truyền thống hiếu học. Giữ gìn và phát huy tinh hoa của vùng đất học này cũng là trách nhiệm chung trong việc bảo tồn bản sắc văn hiến nghìn năm của Thăng Long - Hà Nội.
Không chỉ có những vị đỗ đại khoa, dòng họ Nguyễn Du Lâm còn sản sinh nhiều người đỗ Tú tài, tạo nên một truyền thống khoa bảng hiếm có ở Bắc Bộ thời Nguyễn. Bước sang thời cận - hiện đại, mạch nguồn chữ nghĩa ấy vẫn không hề gián đoạn. Nổi bật trong số đó là Nguyễn Triệu Luật (1903 - 1946) - nhà văn với nhiều tiểu thuyết lịch sử giá trị như: Bà Chúa Chè, Loạn Kiêu binh, Ngược đường Trường Thi, Chúa Trịnh Khải, Thiếp chàng đôi ngả… Trong thế kỷ XX, làng Du Lâm còn sản sinh nhiều trí thức, giáo viên, cán bộ cách mạng. Họ chính là những người tiếp nối truyền thống hiếu học, mang tri thức để phụng sự đất nước trong các giai đoạn kháng chiến và kiến thiết.
Khánh Hoà đăng cai triển lãm ảnh tôn vinh bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam
Bộ VHTT&DL vừa ban hành quyết định tổ chức triển lãm ảnh “Sắc màu các dân tộc Việt Nam” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi năm 2025.
Triển lãm được xem là hoạt động ý nghĩa nhằm góp phần nâng cao chất lượng đời sống văn hóa, gắn kết bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam.
Triển lãm hướng tới mục tiêu quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam thông qua ngôn ngữ nhiếp ảnh – phương tiện nghệ thuật giàu sức truyền cảm. Bộ ảnh trưng bày không chỉ phản ánh nét đẹp văn hóa, phong tục, tập quán đặc sắc mà còn thể hiện tinh thần đoàn kết, sáng tạo, khát vọng vươn lên của đồng bào các dân tộc thiểu số trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Ảnh minh hoạ: ITN.
Dự kiến, triển lãm diễn ra vào tháng 11/2025 tại tỉnh Khánh Hòa – địa phương có nhiều tiềm năng du lịch và giao lưu văn hóa. Triển lãm sẽ giới thiệu khoảng 250 tác phẩm ảnh, trong đó 200 tác phẩm do Bộ VHTT&DL tuyển chọn và 50 tác phẩm về các dân tộc tại Khánh Hòa do địa phương lựa chọn.
Các tác phẩm được lựa chọn đảm bảo chất lượng về nội dung và hình thức nghệ thuật, thể hiện sinh động vẻ đẹp con người, trang phục, lễ hội, phong cảnh và đời sống sinh hoạt của đồng bào các dân tộc. Đây sẽ là nguồn tư liệu quý phục vụ công tác tuyên truyền, quảng bá văn hóa dân tộc trong các dịp lễ hội, sự kiện lớn và các hoạt động giao lưu nghệ thuật trong và ngoài nước.
Thông qua triển lãm, công chúng trong nước và bạn bè quốc tế sẽ có cơ hội thưởng thức những tác phẩm nhiếp ảnh đặc sắc, đồng thời hiểu hơn về đời sống, văn hóa và tinh thần đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt Nam – những “sắc màu” làm nên sự phong phú, đa dạng và bền vững của nền văn hóa dân tộc.