Việt Nam – Nhật Bản: Đẩy mạnh hợp tác về VHTTDL lên tầm cao mới
(Chinhphu.vn) - Ngày 15/8, tại trụ sở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng đã có buổi tiếp và làm việc với Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Ito Naoki về việc tăng cường và thúc đẩy giao lưu văn hóa, thể thao, du lịch giữa hai nước lên tầm cao mới.
Hơn 3.000 đoàn viên Sơn La tham gia ngày hội ‘Khát vọng non sông’
.t1 { text-align: justify; }
Ngày 16/8, tại Quảng trường Tây Bắc, Tỉnh đoàn Sơn La tổ chức Chương trình ngày hội “Khát vọng non sông” với sự tham gia của hơn 3.000 đoàn viên thanh niên là học sinh, sinh viên đến từ các trường: Đại học Tây Bắc, Cao đẳng Sơn La, Cao đẳng Y tế Sơn La, THPT Chuyên Sơn La và THPT Tô Hiệu.
Trong khuôn khổ ngày hội, các đoàn viên thanh niên đã tham gia nhiều hoạt động sôi nổi như: Nhảy dân vũ trên nền nhạc “Tuổi trẻ thế hệ Bác Hồ”, “Đường lên phía trước”, “Viết tiếp câu chuyện hòa bình”; múa cờ; xếp hình bản đồ Việt Nam và dòng chữ “Khát vọng non sông”, cùng đồng thanh khẩu hiệu: “Khát vọng non sông - Việt Nam vươn xa - Thanh niên Sơn La tiếp bước”.
Bà Cầm Thị Huyền Trang, Bí thư Tỉnh đoàn Sơn La cùng các đoàn viên thanh niên tham gia ngày hội.
Ngày hội đã mang đến bầu không khí phấn khởi, tự hào, khẳng định vai trò xung kích của tuổi trẻ, đồng thời lan tỏa thông điệp: “Mỗi trái tim - một nhịp đập vì Tổ quốc”, “Khát vọng non sông – Việt Nam vươn xa”.
Em Lò Thúy Hoa, Sinh Viên năm 2 trường Cao đẳng Sơn La cho biết: “Em rất vui khi được cùng các bạn tham gia hoạt động múa cờ, xếp hình bản đồ Việt Nam và dòng chữ “Khát vọng non sông”. Em rất tự hào và hãnh diện khi là công dân Việt Nam".
Đông đoàn viên thanh niên tham gia ngày hội.
Việc Tỉnh đoàn Sơn La tổ chức “Ngày hội khát vọng non sông” năm 2025 là dịp để các cán bộ, đoàn viên thanh niên cùng ôn lại truyền thống đấu tranh anh hùng của cha ông. Đồng thời, tri ân những con người vĩ đại đã làm rạng danh non sông đất Việt, đồng thời cũng nhắc nhở đoàn viên, thanh niên không ngừng tu dưỡng đạo đức, trau dồi tri thức, kiên định lý tưởng cách mạng, góp phần dựng xây quê hương đất nước ngày càng giàu mạnh.
Kiều Duy nền nã diện áo dài trong bộ hình đầu tiên gửi đến Miss International
Những hình ảnh đầu tiên của Hoa hậu Nguyễn Ngọc Kiều Duy đã được đăng tải trên trang chủ của cuộc thi Miss International, cùng với đó là các đại diện đến từ United Kingdom - Sophie Wallace, Colombia - Catalina Duque Abréu, Singapore - Tanisha Tan, Japan - Ai Nozaki, Türkiye - Ayşe Sena Şeref, Montenegro - Ana Dedvukaj.
Người đẹp sinh năm 2003 là một trong 7 đại diện được đăng tải hình ảnh chân dung chính thức sớm nhất, hình ảnh của Kiều Duy thu hút lượng tương tác lớn từ người hâm mộ Việt Nam.
Hình ảnh đầu tiên của Hoa hậu Kiều Duy trên trang chủ Miss International.
Trong không khí cả nước hướng về đại lễ kỷ niệm 80 năm ngày Quốc khánh của đất nước Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025), Hoa hậu Kiều Duy quyết định thực hiện và gửi đến tổ chức Miss International bộ ảnh đậm chất công dân trẻ yêu nước.
Khác với các đại diện trước, Kiều Duy chọn diện áo dài trắng với vẻ đẹp ngọt ngào, tinh khôi. Song vẫn toát lên khí chất của người con gái Việt Nam thế hệ mới, đầy năng động và nhiệt huyết, sẵn sàng mang những nét đẹp truyền thống tốt đẹp của đất nước đến với bạn bè quốc tế.
Sau nửa năm nhiệm kỳ, Hoa hậu Kiều Duy để lại dấu ấn của một cô gái Việt Nam hiền thục, ôn hòa và không kém phần cởi mở, phóng khoáng.
Hiện tại, cô đã có thời gian dự kiến tốt nghiệp và bắt đầu chuẩn bị thủ tục tiếp tục chặng đường học tập với mục tiêu chinh phục tấm bằng Thạc sĩ.
Cùng với con đường học tập, Hoa hậu Kiều Duy còn bày tỏ sự quan tâm đến những hoạt động mang tính văn hóa, truyền thống, giải trí và cộng đồng, cô nhiều lần trở thành Đại sứ cho những dự án, chương trình cộng đồng như Lễ hội Bánh dân gian Đông Nam Bộ, Lễ hội Áo dài TPHCM, Lễ hội Thanh niên TPHCM, Tiếp sức mùa thi, dự án mang nhạc cụ dân tộc và võ Vovinam đến với các trường THPT trên cả nước...
Gần đây, Hoa hậu Kiều Duy dành thời gian để tìm hiểu các làng nghề Việt Nam với chương trình “Một ngày làm nghệ nhân”.
Hoa hậu Kiều Duy tích cực chuẩn bị hành trang trước khi lên đường tham gia Miss International.
Thời gian vừa qua, người đẹp sinh năm 2003 bắt đầu đăng tải hình ảnh những buổi học, tập luyện chuẩn bị cho hành trình đến với Miss International 2025.
Đáng chú ý, huấn luyện viên catwalk của Hoa hậu Kiều Duy là Sulayao Jethro Asia (International Pageant Coach and Pasarela Trainer) và Bacon Alfredo Jr Relucio (International Catwalk Director and Image Stylist) đến từ Philippines, đây là 2 chuyên gia catwalk quốc tế đã từng đồng hành cùng những Hoa Á hậu nổi tiếng như: Hoa hậu Như Vân, Á hậu Mai Ngô, Á hậu Bích Tuyền,..
Bên cạnh đó, huấn luyện viên Khoa Nguyễn cũng hé lộ hình ảnh Kiều Duy chăm chỉ làm quen với bộ môn múa, chuẩn bị cho tiết mục tài năng của mình. Cùng với đó, những kỹ năng như trang điểm, làm tóc, tiếng anh,... cũng đã được Kiều Duy sắp xếp trau dồi và nâng cao.
Hành trình Miss International 2025 của Kiều Duy sẽ chính thức bắt đầu vào ngày 12/11 và chung kết được diễn ra vào 28/11.
Nhà văn - Dịch giả Kiều Bích Hậu nhận giải thưởng của Hiệp hội văn hóa Ý
Năm nay, bên cạnh nhà văn Kiều Bích Hậu, giải thưởng còn được trao cho nhà thơ người Bồ Đào Nha, Jose Manuel De Vasconselos.
Mặc dù giải thưởng có trị giá 1.000 Euro, nhưng giá trị tinh thần mà nó mang lại cho người nhận là vô cùng to lớn. Giải thưởng văn hóa này được trao lần đầu tiên vào năm 1968.
Nhà văn - dịch giả Kiều Bích Hậu được cộng đồng văn hóa quốc tế biết đến qua những hoạt động sôi nổi và bền bỉ trong việc giao lưu, trao đổi, dịch thuật và quảng bá văn chương Việt Nam ra thế giới.
Chị đã xây dựng một mạng lưới kết nối rộng khắp với các dịch giả, tác giả, biên tập viên, báo chí, các nền tảng văn chương và nhà xuất bản trên toàn cầu.
Poster của Lễ trao giải in hình hai tác giả được trao giải thưởng năm 2025.
Suốt 7 năm qua, với vai trò là một nhà văn, dịch giả và từng có 5 năm công tác tại Ban Đối ngoại Hội nhà văn Việt Nam, Kiều Bích Hậu cùng với nhóm Nữ dịch giả Hà Nội đã nỗ lực không ngừng nghỉ để xây dựng và mở rộng mạng lưới giao lưu văn chương quốc tế.
Nhóm đã chủ động kết nối với các nhà văn, dịch giả, và nhà xuất bản tại nhiều quốc gia ở châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và châu Á. Mục tiêu duy nhất là quảng bá, giới thiệu văn học Việt Nam, từ đó lan tỏa văn hóa truyền thống và vẻ đẹp tâm hồn Việt ra toàn cầu.
Những nỗ lực này đã mang lại những kết quả đáng mừng. Gần 100 tác giả Việt Nam có tác phẩm đã được nhóm Nữ dịch giả Hà Nội chuyển ngữ và giới thiệu ra nước ngoài dưới nhiều hình thức. Có thể là những chùm thơ, truyện ngắn, hoặc trích đoạn tiểu thuyết đăng tải trên các tạp chí văn học quốc tế.
Điều đặc biệt hơn, gần 50 đầu sách thơ – văn Việt Nam đã được Nhóm Nữ dịch giả Hà Nội cùng các cộng tác viên dịch và tổ chức xuất bản tại Mỹ, Hungary, Romania, Ý, Hàn Quốc, Canada, Morocco, Nga, Hy Lạp, Ấn Độ...
Những nỗ lực bền bỉ và hiệu quả của Kiều Bích Hậu đã được phía Ý biết đến, công nhận, và quyết định trao giải thưởng năm nay cho chị.
Bản thân Kiều Bích Hậu cũng đã xuất bản 30 tập văn xuôi, thơ trong và ngoài nước. Tác phẩm của chị cũng đã được dịch ra hơn 20 ngôn ngữ trên thế giới. Được biết, cuốn sách thơ đầu tiên của chị được phía Ý xuất bản song ngữ Anh – Ý năm 2020. Chị cũng đã tham gia hơn 10 Festival thơ văn quốc ở châu Á, Phi, Mỹ, Âu…
Thư mời của Ban tổ chức – Hiệp hội văn hóa Rhegium Julii gửi Nhà văn – dịch giả Kiều Bích Hậu.
Theo thư mời chính thức từ Hiệp hội Văn hóa Rhegium Julii, lễ trao giải thưởng sẽ diễn ra vào lúc 9 giờ tối ngày 25/8/2025 tại Câu lạc bộ quần vợt "Rocco Polimeni" ở Reggio Calabria, Ý.
Nhà văn Kiều Bích Hậu sẽ bay sang Reggio Calabria để trực tiếp nhận giải thưởng. Với tư cách là khách mời quốc tế, chị đọc ba tác phẩm thơ chọn lọc của mình và chia sẻ quan điểm về thơ đương đại trong Lễ trao giải.
Sau Lễ trao giải, chị cùng tác giả người Bồ Đào Nha sẽ được Ban tổ chức đưa đi tham quan một số địa danh nổi tiếng của vùng Calabria. Có thể kể đến Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia Reggio Calabria, nơi trưng bày những bức tượng đồng Riace, hay Eo biển Messina và thị trấn Scilla - nơi được mệnh danh là những điểm đến của Odyssey.
Chị cũng sẽ có cơ hội thăm quan Arena dello Stretto, một nhà hát lộ thiên nằm trên bờ biển, và Nhà thờ Reggio Calabria (Duomo di Reggio Calabria).
Nhà văn – dịch giả Kiều Bích Hậu.
Giải thưởng "Trọn đời vì văn hóa" là sự công nhận cá nhân đối với những đóng góp của nhà văn - dịch giả Kiều Bích Hậu, và là một dấu ấn về sức lan tỏa của văn học Việt ra quốc tế.
Sự kiện này một lần nữa cho thấy những nỗ lực thầm lặng của các dịch giả Việt Nam đang từng bước đưa văn hóa và văn chương nước nhà đến gần hơn với bạn bè năm châu, góp phần làm phong phú thêm bản đồ văn học thế giới.
Áo tơi Yên Lạc: Giữ hồn làng trong từng mũi chằm
Thế nhưng, ở một làng quê Hà Tĩnh, nghề chằm áo tơi vẫn lặng lẽ tồn tại như một phần ký ức gắn liền với đất và người vùng nắng gió.
Nghề xưa chưa cũ
Từ xa xưa, chiếc áo tơi đã là người bạn thân thiết của nông dân Hà Tĩnh. Làm từ những vật liệu thuần tự nhiên như lá cọ, dây mây, giang non…, áo tơi không chỉ có tác dụng che nắng, che mưa, mà còn mang theo dấu ấn văn hóa đặc trưng, gắn bó sâu sắc với đồng đất, nếp sống làng quê.
Ở thôn Yên Lạc (xã Xuân Lộc), nghề chằm áo tơi đã tồn tại hàng trăm năm, được truyền qua nhiều thế hệ. Dù xã hội đổi thay, nhiều nghề truyền thống dần mai một, thì ở nơi đây, tiếng lách tách của những bàn tay khéo léo chằm từng lớp lá vẫn đều đặn vang lên mỗi ngày.
Đã có thời, Yên Lạc nổi tiếng khắp vùng vì cả làng sống bằng nghề chằm áo tơi. Những năm 60 - 70 của thế kỷ trước, dọc các con đường làng đâu đâu cũng thấy chồng lá cọ, bó mây, tiếng người già trẻ nhỏ rôm rả bên những chiếc tơi đang dở dang. Áo tơi Yên Lạc từng theo đôi quang gánh của người dân len lỏi khắp các chợ quê đến tận chợ huyện, chợ tỉnh. Thương lái cũng từng tấp nập về làng thu mua.
“Ngày đó, làm tơi là nghề chính nuôi sống cả làng. Mỗi sáng, chúng tôi mang vài cái áo tơi ra chợ Lối (Xuân Lộc), chợ Gát (Việt Xuyên), chợ Huyện (Đồng Lộc)… bán lấy tiền hoặc đổi lấy gạo, cá khô, nước mắm”, bà Nguyễn Thị Cảnh (70 tuổi) nhớ lại.
Đơn giản, bền bỉ và rẻ tiền - chiếc áo tơi từng là “áo mưa, áo nắng” của người nông dân miền Trung suốt nhiều thế kỷ. Mỗi chiếc tơi là kết quả của hàng chục giờ lao động thủ công tỉ mẩn: Từ chọn lá, vuốt lá, bện dây đến chằm lá theo lớp. Trong một gia đình, 4 - 5 người cùng ngồi làm, vừa góp công vừa truyền nghề. Trẻ con lớn lên cũng biết vuốt lá, bện triêng từ thuở chưa biết đánh vần.
Áo tơi có hai loại: Tơi mưa và tơi nắng. Tơi mưa làm từ lá cọ dày, có độ dai cao để chống mưa to, gió lớn. Tơi nắng thì làm bằng lá cọ khô, nhẹ, thoáng, rất phù hợp với thời tiết khắc nghiệt miền Trung vào mùa Hè. Ngày nay, dù các loại áo mưa, áo chống nắng hiện đại đã phổ biến, nhiều người dân vẫn ưa dùng áo tơi vì độ bền, sự thoáng mát tự nhiên và giá cả phải chăng.
Lá tơi - nguyên liệu chính để làm áo tơi Yên Lạc.
Một số công đoạn thủ công làm ra chiếc áo tơi Yên Lạc.
Tỉ mỉ trong từng công đoạn
Ông Nguyễn Đăng Thường (85 tuổi), một “lão nghệ nhân” của làng, cho biết mùa chính để làm áo tơi là từ tháng 2 đến tháng 7 âm lịch - khi lá cọ già đạt độ dai vừa đủ. “Loại lá cọ dùng làm áo tơi phải vào tận rừng sâu mới có… Người dân gọi đó là lá tơi để phân biệt với loại lá cọ trồng quanh nhà. Lá hái về phải phơi cho khô rồi vuốt mềm ra. Dây mây, giang cũng phải được đẽo, chẻ, phơi kỹ rồi mới bện lại thành triêng - sợi dây giữ cho áo không bung khi gặp gió to, mưa lớn”, ông Thường chia sẻ.
Làm một chiếc áo tơi là cả một quá trình đòi hỏi sự kiên nhẫn. Từ khâu chọn loại lá bánh tẻ - không non quá cũng không già quá - đến việc phơi đúng nắng để giữ được độ dẻo dai, không bị giòn gãy. Lá khô được bó lại, vuốt mềm rồi mới đưa vào chằm. Trong mỗi gia đình, thường sẽ có một người đảm nhận công đoạn chằm chính, những người còn lại phụ vuốt lá, bện dây.
Một chiếc áo tơi cần khoảng 180 - 200 tàu lá, được xếp lớp so le và khâu chặt tay bằng dây mây hoặc dây giang. Người chằm phải ngồi đúng tư thế, vuốt lá đều tay rồi tỉ mẩn dùng dùi xoi lỗ, xỏ dây, rút đều từng mũi như thêu tranh. “Để tơi không bị rách hay bung lớp, người thợ phải nắm được thế chằm - từ hướng lá, độ chồng đến độ siết dây. Sai một mũi là phải tháo lại từ đầu”, ông Thường cho biết.
Bà Đặng Thị Hiền (70 tuổi, thôn Yên Lạc), một trong những người gắn bó với nghề chằm tơi từ thuở thiếu nữ, chia sẻ: “Một chiếc tơi nắng chỉ khoảng 70 nghìn đồng nhưng mặc bền được đến ba mùa Hè. Mùa nắng này, tôi vẫn mặc áo tơi đi làm đồng, đỡ nóng lắm”, bà vừa nói vừa thoăn thoắt vuốt từng tàu lá. Những năm còn trẻ, bà có thể làm 5 - 6 chiếc mỗi ngày. Giờ đã cao tuổi, bà vẫn cố làm 3 - 4 cái để giữ nghề và có thêm thu nhập.
Trong những mái nhà nhỏ của Yên Lạc, nghề chằm tơi không chỉ là kế sinh nhai, mà còn là một phần ký ức gia đình. Bà Đặng Thị Chất - giáo viên nghỉ hưu - nhớ lại: “Hồi tôi mới về làm dâu ở Yên Lạc, chiều đi dạy về là lại ngồi phụ mẹ chồng chằm tơi. Thời gian đầu chỉ chuốt lá, sau học dần rồi biết chằm hoàn chỉnh. Nhờ nghề này mà gia đình tôi có thêm thu nhập, nuôi con cái ăn học đến nơi đến chốn”.
Chiếc áo tơi Yên Lạc được chằm nhiều lớp lá, đảm bảo mát khi nắng và che chắn nước khi mưa.
Từ mái nhà nhỏ vươn ra thị trường lớn
Thôn Yên Lạc hiện có 188 hộ dân, trong đó khoảng 2/3 hộ vẫn còn giữ nghề chằm tơi. Tuy vậy, số hộ làm nghề thường xuyên chỉ còn khoảng 15 - 20 hộ. Những cái tên như ông Nguyễn Đăng Đông - bà Nguyễn Thị An hay bà Nguyễn Thị Bàng vẫn là chỗ dựa vững chắc của làng nghề.
Năm 2022, Tổ hợp tác chằm tơi Yên Lạc được thành lập với 25 thành viên. Bà Trần Thị Lệ Thu - Chủ tịch tổ hợp tác - chia sẻ: “Chúng tôi muốn tập hợp những người còn tâm huyết, cùng nhau nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm đầu ra ổn định và quảng bá áo tơi Yên Lạc đến với khách hàng xa hơn, rộng hơn”.
Sự ra đời của tổ hợp tác đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Vào mùa cao điểm, các hộ chuyên làm tơi có thể đạt thu nhập từ 16 - 17 triệu đồng/tháng - con số không nhỏ đối với một vùng quê nông nghiệp. Quan trọng hơn, điều này giúp người dân yên tâm gắn bó với nghề, con cháu thấy được giá trị văn hóa và kinh tế mà nghề truyền thống mang lại.
Nhờ hoạt động tích cực của tổ hợp tác, áo tơi Yên Lạc đã vượt ra khỏi ranh giới làng quê. Nhiều đoàn du lịch, công ty lữ hành tìm đến đặt hàng với số lượng lớn để làm quà tặng hoặc phục vụ các trải nghiệm văn hóa. Hình ảnh chiếc áo tơi - mộc mạc, thân thiện, gần gũi - trở thành một biểu tượng văn hóa đậm chất miền Trung, khiến du khách thích thú và trân trọng.
Bà Đặng Thị Hiền (70 tuổi) - một trong 20 hộ dân còn giữ nghề tại làng.
Dẫu nhịp nghề nay đã lặng hơn xưa, nhưng những đơn hàng lớn vẫn là điểm sáng trong mùa chằm. Như tháng 4 vừa rồi, gia đình bà Đặng Thị Hiền - người thợ lão luyện với hơn nửa thế kỷ gắn bó nghề - đã nhận được đơn hàng gần 200 chiếc áo tơi gửi đi Thái Bình (địa phương trước sáp nhập đơn vị hành chính). Những đơn hàng như vậy không còn nhiều, nhưng là động lực quý giá, chứng tỏ áo tơi Yên Lạc vẫn có vị thế, không chỉ trong vùng mà còn lan tỏa đến các tỉnh lân cận.
Ngày nay, thị trường ngập tràn các loại áo chống nắng đủ kiểu dáng, chất liệu - từ vải dù, chống tia UV đến áo quạt gió, làm mát bằng pin sạc… Thế nhưng, chiếc áo tơi giản dị làm từ lá cọ vẫn âm thầm giữ vị trí riêng. Với người dân Yên Lạc, chiếc áo tơi không chỉ là vật dụng che mưa nắng, mà còn là hơi thở làng nghề, là sợi dây kết nối bao thế hệ với đất quê.
Chúng tôi muốn không chỉ giữ nghề, mà còn phát triển nghề. Tổ hợp tác ra đời để gắn kết các hộ, cùng nhau nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm đầu ra ổn định và quảng bá áo tơi Yên Lạc đến với khách hàng xa hơn. Trong thời gian tới, chúng tôi cũng mong sẽ có thêm những sự hỗ trợ - không chỉ về nguồn vốn mà cả trong việc kết nối thị trường - để làng nghề không bị mai một. Bà Trần Thị Lê Thu, Chủ tịch Tổ hợp tác chằm tơi Yên Lạc
Giữ lửa cho ca trù: Hồi sinh di sản trong lòng thời đại mới
Trong một căn nhà cổ giữa phố Hàng Bạc, Hà Nội, tiếng đàn đáy ngân vang cùng giọng hát trong veo của người nghệ nhân làm sống dậy không gian nghệ thuật từng rực rỡ bậc nhất trong lịch sử văn hóa dân tộc - ca trù.
Nhưng phía sau vẻ kiêu bạc, tinh tế ấy là một thực tại đầy trăn trở: Làm sao để ca trù không chỉ sống trong hoài niệm, mà còn tìm lại được ánh hào quang vốn có?
Viên ngọc quý của hồn Việt
Hát ca trù còn có các tên gọi khác như: Hát ả đào, đào nương ca, cô đầu (ở các ca quán), nhà trò (đình, đền, miếu), nhà tơ (dinh quan, tư gia các gia đình quyền quý), cửa quyền (trong cung phủ). Sự độc đáo của ca trù nằm ở chỗ nó là một bộ môn nghệ thuật tổng hợp, phối hợp đa dạng và nhuần nhuyễn giữa thi ca, âm nhạc và đôi khi có cả múa và trò diễn. Tên gọi “ca trù” xuất phát từ chính hình thức diễn xướng của loại hình này. Nó độc đáo ở không gian nghệ thuật riêng, nhạc cụ riêng và thể thơ riêng biệt.
Ca trù không ồn ào, không đại chúng. Một buổi ca trù đúng nghĩa đòi hỏi sự kết hợp ăn ý giữa giọng hát cô đầu, tiếng phách giòn giã và âm trầm đục của đàn đáy. Lời ca là thơ văn chọn lọc, thường do chính các danh sĩ thời xưa sáng tác. Đặc biệt, thể thơ hát nói - vốn gắn liền với ca trù - từng là “sân chơi” của nhiều tên tuổi lớn như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến…
Cố GS Trần Văn Khê (1921 - 2015), người đã dành gần trọn cả cuộc đời cống hiến cho nền âm nhạc dân tộc, từng ví ca trù là “tinh hoa bác học của dân tộc Việt”, thể hiện sự sang trọng trong tâm hồn người Việt - một sự quý phái mà không phô trương. Nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền cũng từng phân tích: “Ả đào là thể loại ở tầng bậc kỹ thuật cao, đỉnh chóp với hệ âm luật phức tạp, kỳ vĩ và hóc hiểm nhất”.
Chính giá trị ấy đã khiến ca trù được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại vào năm 2009. Nhưng vinh danh chỉ là bước đầu. Sau hơn một thập kỷ, ca trù vẫn đang vật lộn để tìm lại chỗ đứng trong đời sống hiện đại.
NSƯT Bạch Vân - người đã dành gần cả cuộc đời để giữ gìn văn hóa ca trù, đồng thời góp công xây dựng nhiều câu lạc bộ ca trù ở những địa phương có truyền thống về loại hình nghệ thuật này, kể lại: “Nói khó khăn thì quá nhiều”. Giọng bà chùng xuống, đôi mắt ánh lên những ký ức.
Ở thời điểm đã có thể ngồi chung chiếu với các thầy của mình, cũng là lúc bà nhận ra rằng: Trong khi ca trù còn chưa kịp được công nhận, thì các nghệ nhân tài danh đều đã ở tuổi gần đất xa trời; lớp người kế cận lại chẳng còn mấy ai. Bên cạnh đó là sự thiếu tư liệu nghiên cứu, sự mai một và thất truyền của các ngón nghề từ những nghệ nhân lớn tuổi - và đau lòng hơn cả là những định kiến, những cái nhìn thiếu thiện cảm từ xã hội.
“Ngay cả trong cơ quan, bạn bè, xã hội, người ta bảo: Cô phục hồi cái thú ăn chơi à? Cái cô đầu Khâm Thiên à? Cái lối đàn điếm à?” - những lời lẽ ấy như những mũi dao vô hình xoáy sâu vào tâm can người nghệ sĩ tâm huyết, người đang cố gắng làm một việc lớn lao cho văn hóa dân tộc.
Để có được nguồn kinh phí ít ỏi duy trì hoạt động, tiếp tục thắp lên ngọn lửa ca trù, nghệ sĩ Bạch Vân đã không quản ngại bất cứ công việc gì, từ lao động chân tay vất vả, gánh từng thùng nước, đến buôn bán ngược xuôi; những ngày tháng phải lên tận Lạng Sơn để buôn hồng ngâm, hay ngược lên huyện Yên Châu cũ (Sơn La) để tìm mua xoài.
Bà nghẹn ngào kể về số phận của những nghệ nhân ca trù tài hoa nhưng bạc mệnh. NSƯT Bạch Vân nhắc đến cụ Đào ở thôn Lỗ Khê, hay cụ Chu Văn Du - kép đàn, Phó quản ca giáo phường Khâm Thiên. Những nghệ nhân khác như bà Quách Thị Hồ phải “đi bán nước chè, bán phở”, bà Nguyễn Thị Trúc “về quê giữ ruộng, buôn hàng xén”, cụ Phạm Thị Mùi “đi làm ruộng”. Sự mai một của các nghệ nhân chính là sự mất mát lớn lao cho nghệ thuật này.
Nhưng xen kẽ với những nốt trầm buồn ấy là những khoảnh khắc ấm áp. Đó là khi bà được các cụ nghệ nhân mở lòng tin tưởng, truyền dạy những ngón nghề độc đáo. Bà đã kiên trì dạy ba lớp ca trù ở Lỗ Khê (Hà Nội), mỗi lớp 18 học sinh. Đó là những giọt nước mắt hạnh phúc của khán giả, cả người Việt Nam và bạn bè quốc tế, khi họ được lắng nghe, được chìm đắm trong những làn điệu ca trù.
Một tiết mục biểu diễn ca trù của ba ca nương Câu lạc bộ Ca trù Thăng Long ở đền Quan Đế (Hà Nội). Ảnh: VNP
Sứ mệnh gìn giữ, lan tỏa và sáng tạo
Ca trù đã trải qua một hành trình đầy biến động. Những đứt gãy lịch sử cùng sự thiếu tương thích với nhịp sống hiện đại khiến loại hình nghệ thuật từng “vang bóng một thời” này đứng trước nguy cơ mai một.
Một trong những trở ngại lớn nhất là sự biến mất của không gian diễn xướng truyền thống - nơi ca trù từng sống trong lòng văn hóa dân gian. Những chủ thể sáng tạo ca trù ngày xưa - các thi sĩ, văn nhân lỗi lạc như Lê Đức Mao, Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh - giờ đây không còn hiện diện trong đời sống nghệ thuật đương đại.
Bên cạnh đó, người học và sáng tạo ca trù cần có nền tảng văn hóa Hán học sâu rộng - điều không dễ có được trong bối cảnh hiện nay. Việc học ca trù cũng đầy gian nan. Nghệ nhân Bạch Vân chia sẻ: Có khi chỉ một bài hát, người học phải mất vài năm để luyện được cách nhả chữ thuần thục, vừa ý thầy dạy; thậm chí có trường hợp, cả tháng trời trôi qua mà vẫn chưa hoàn thiện nổi một câu hát.
Theo NSƯT Bạch Vân, điều quan trọng nhất là giúp các bạn trẻ thấy rằng ca trù không phải là thứ gì quá xa vời. “Khi người trẻ nhận ra họ có thể tiếp cận nó bằng cảm xúc thật, thì họ sẽ ở lại”. Do đó, bà không chỉ dạy hát, dạy đàn, mà còn cố gắng giải thích, giới thiệu lịch sử, nghệ thuật của ca trù cho khán giả, đặc biệt là những người trẻ.
Giữa dòng chảy hiện đại, việc giữ gìn di sản không còn là chuyện hoài cổ, mà là hành động hướng tới tương lai. Thực trạng đáng báo động về nguy cơ mai một của ca trù - một di sản văn hóa phi vật thể quý giá của dân tộc - đang đặt ra yêu cầu cấp bách về một chiến lược bảo tồn và phát triển toàn diện, mang tính đột phá. Những nỗ lực đơn lẻ, manh mún và các chương trình mang tính phong trào, dù đáng ghi nhận, tỏ ra chưa đủ sức vực dậy một loại hình nghệ thuật từng có vị thế vàng son.
Giới chuyên môn và những người nặng lòng với ca trù đều chung nhận định: Đã đến lúc cần một “cuộc cách mạng” trong tư duy và hành động, một cách tiếp cận đa chiều, đồng bộ, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội để ca trù thực sự trở về đời sống, chứ không chỉ tồn tại lay lắt trong không gian biểu diễn hạn hẹp.
Một trong những giải pháp mang tính nền tảng, có tầm nhìn dài hạn chính là đưa ca trù một cách bài bản và hấp dẫn vào hệ thống giáo dục quốc dân. Thay vì chỉ là những giới thiệu sơ lược, rời rạc, cần xây dựng các chương trình, môn học trải nghiệm văn hóa ca trù chính thức, phù hợp với từng cấp học, từ tiểu học đến đại học. Nội dung không chỉ dừng lại ở lý thuyết suông về lịch sử, các làn điệu, mà phải chú trọng thực hành, tương tác.
Hãy tưởng tượng những giờ học mà học sinh được trực tiếp lắng nghe tiếng phách, tiếng đàn đáy, được thử gõ phách, ngâm nga những câu hát cơ bản, hay thậm chí tham gia dàn dựng những hoạt cảnh ca trù nho nhỏ. Việc này không chỉ giúp thế hệ trẻ tiếp cận, thẩm thấu vẻ đẹp độc đáo của ca trù một cách tự nhiên, mà còn gieo mầm tình yêu, niềm tự hào và ý thức trách nhiệm gìn giữ di sản của cha ông. Đây chính là cách tạo ra một lớp công chúng am hiểu và một thế hệ nghệ sĩ kế cận tiềm năng cho tương lai.
Trong bối cảnh ngành du lịch đang tìm kiếm những sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa, việc phát triển các tour trải nghiệm nghệ thuật truyền thống với ca trù là điểm nhấn chủ đạo mở ra một hướng đi đầy triển vọng.
NSƯT Bạch Vân biểu diễn tại lễ kỷ niệm 50 năm ngày tựu trường K73, Trường Cao đẳng Văn hóa - Nghệ thuật Nghệ An. Ảnh: INT
Việt Nam đã xuất bản nhiều cuốn sách giới thiệu về nghệ thuật ca trù đến du khách trong và ngoài nước. Ảnh: VNP
Không chỉ là những buổi biểu diễn xen kẽ, cần thiết kế các gói sản phẩm du lịch chuyên sâu, nơi du khách được đắm mình trong không gian ca trù đích thực: Từ việc tìm hiểu lịch sử hình thành, ý nghĩa các thể cách, vai trò của từng nhạc cụ, đến giao lưu trực tiếp với nghệ nhân, thậm chí tham gia một lớp học ca trù cấp tốc.
Những “địa chỉ đỏ” của ca trù như các giáo phường cổ, nhà hát truyền thống có thể trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút du khách trong và ngoài nước. Sự thành công của mô hình này không chỉ mang lại nguồn thu nhập bền vững cho nghệ nhân và các tổ chức ca trù, mà quan trọng hơn, nó đưa ca trù ra khỏi không gian biểu diễn hạn chế, quảng bá mạnh mẽ giá trị của di sản, đồng thời khẳng định sức sống và khả năng đóng góp của văn hóa truyền thống vào sự phát triển kinh tế - xã hội.
Mọi chiến lược, kế hoạch dù hoàn hảo đến đâu cũng sẽ trở nên vô nghĩa nếu thiếu đi nhân tố cốt lõi: Những nghệ nhân ca trù - “báu vật sống” đang ngày đêm gìn giữ và trao truyền ngọn lửa di sản. Thực tế phũ phàng, như lời tâm sự xót xa từ chính người trong cuộc, là nhiều nghệ nhân vẫn phải chật vật mưu sinh bằng đủ thứ nghề tay trái, không thể toàn tâm toàn ý cống hiến cho nghiệp đàn, phách. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng nghệ thuật, mà còn làm gián đoạn quá trình truyền dạy cho thế hệ kế cận.
Vì vậy, việc xây dựng một hệ thống chính sách đầu tư bài bản, dài hạn, đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho nghệ nhân là yêu cầu cấp bách và mang tính sống còn. Đó không chỉ là các khoản hỗ trợ tài chính, phụ cấp nghề nghiệp, mà còn là sự tôn vinh xứng đáng, tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong công tác nghiên cứu, sưu tầm, truyền dạy và biểu diễn. Chỉ khi nghệ nhân có thể “sống được bằng nghề”, họ mới thực sự yên tâm “giữ lửa” và trao truyền di sản cho mai sau.
Con đường phục hưng ca trù chắc chắn sẽ còn nhiều gian nan, đòi hỏi một tầm nhìn chiến lược, sự vào cuộc quyết liệt của các cấp quản lý văn hóa, sự chung tay của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và trên hết là tình yêu, ý thức trách nhiệm của cả cộng đồng.
Với một chiến lược toàn diện, lấy nghệ nhân làm trung tâm, lấy giáo dục làm nền tảng, lấy du lịch làm đòn bẩy và lấy sáng tạo làm động lực, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào một tương lai tươi sáng hơn cho ca trù - nơi di sản ngàn năm tuổi này không chỉ được bảo tồn, mà còn tiếp tục tỏa sáng, làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc.
Bảo tồn không có nghĩa là ‘đóng băng’ di sản. Để ca trù thực sự sống trong lòng công chúng đương đại, đặc biệt là giới trẻ, việc khuyến khích sáng tạo, làm mới trên nền tảng tôn trọng những giá trị cốt lõi là vô cùng cần thiết. Cần mở ra những sân chơi, cuộc thi, liên hoan ca trù với tinh thần đổi mới, khuyến khích các thử nghiệm kết hợp ca trù với các yếu tố nghệ thuật hiện đại một cách tinh tế, có chọn lọc. Đó có thể là việc làm mới phần ca từ, phối khí, hoặc kết hợp ca trù với các loại hình nghệ thuật khác như múa đương đại, nhạc điện tử (một cách cẩn trọng và có định hướng).
Khu Di tích tại Phủ Chủ tịch khai mạc chuỗi hoạt động kỷ niệm Quốc khánh 2/9
(Chinhphu.vn) - Ngày 15/8, tại Hà Nội, Khu Di tích Phủ Chủ tịch phối hợp với Ban Quản lý Di tích tỉnh Điện Biên, Bảo tàng Nguyễn Chí Thanh, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Cục Gìn giữ hòa bình (Bộ Quốc phòng) và các đơn vị tổ chức ra mắt sách và triển lãm chuyên đề gồm 6 hoạt động.
Đất học Liên Hà 10 quan Tiến sĩ
Xã Liên Hà, huyện Đông Anh (nay là xã Thư Lâm, Hà Nội) không chỉ là vùng đất cổ với những dấu tích thời Vua Hùng mà còn là vùng đất học nổi tiếng xuyên suốt hàng chục thế kỷ với 10 vị đại khoa.
Đất cổ thời Hùng Vương
Là một xã thuộc tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc, xã Liên Hà là địa phương quần tụ của nhiều thôn làng lớn: Hà Vĩ, Đại Vĩ, Hà Lỗ, Hà Phong… Theo tư liệu của PGS.TS Bùi Xuân Đính (Viện Dân tộc học và Tôn giáo học), riêng làng Hà Vĩ thời phong kiến gồm 3 cộng đồng dân cư có tên Nôm “Kẻ Quậy” là: Quậy Cả (tên chữ là Đại Vĩ), Quậy Sau (Châu Phong) và Quậy Rào (Giao Tác) thuộc tổng Hà Lỗ.
Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Mùi (1463), ghi danh Tiến sĩ Dương Văn Đán – người đầu tiên ở Liên Hà đỗ đại khoa.
Tương truyền, vào năm 208 trước Công nguyên, An Dương Vương định đô ở Cổ Loa đã ra lệnh cho dân phải dời đi để lấy đất xây đắp loa thành. Dân không muốn đi, nhưng vẫn phải tuân theo phép nước nên đã tâu với vua rằng: “Cứ cho chúng tôi xuống khu đất trũng kia, dù khổ mấy cũng cam lòng”.
Do thái độ ấm ức hậm hực của dân khi tâu, vua An Dương Vương bảo: “Đó là dân cà quẫy” và chấp nhận cho dân xuống lập trang Hà Hào - một vùng trũng thấp vốn là đoạn sông cụt của sông Hoàng Giang. Từ lời nói của vua, dân quanh vùng gọi trang Hà Hào là “Cà Quẫy”, lâu ngày gọi chệch là “Quậy”.
Khi chuyển xuống lập nghiệp ở vùng đất trũng, dân Cổ Loa (Chạ Chủ) đã định cư đầu tiên ở xóm Nguyên Hương, và dòng họ đầu tiên là họ Vũ. Tiếp đến là các họ Lê, Nguyễn, Ngô, Dương, Phạm… lập thành cụm dân cư mang tên Quậy Cả, tên chữ là Đại Vĩ. Tại nhà thờ dòng họ Vũ ở Đại Vĩ trước đây còn có đôi câu đối: Thiên vị tài bồi dương ngã Vũ/ Thế truyền tác nghiệp tự Nguyên Hương (nghĩa là: Trời làm giàu cho họ Vũ ta/ Đời đời truyền lưu ở xóm gốc).
Từ Quậy Cả - Đại Vĩ, dân làng Chạ Chủ - Cổ Loa mở mang làng xón ra xung quanh, thêm hai cụm dân cư mới hình thành. Đó là làng Quậy Sau, tên chữ là Châu Phong và Quậy Rào, tên chữ là Giao Tác. Cả ba thôn làng ấy hợp thành trang Hà Hào, gọi chung là ba làng Quậy.
Chính vì thế, theo truyền thống từ xa xưa, dân Chạ Chủ - Cổ Loa tôn dân làng Quậy là anh cả, khi làng Cổ Loa mở hội (mồng 6 tháng Giêng), các hương kỳ, lý dịch, các bậc cao niên làng Quậy được mời về dự và làm lễ nhập tịch ở chiếu trên; dân làng Quậy đến chợ Sa (Cổ Loa) không phải mua vé.
Còn làng Hà Lỗ từ xưa đã là một khối thống nhất, đến giữa thế kỷ 19 chia thành 3 cụm dân cư có tính chất như những làng độc lập, với đình, chùa, đền miếu, tổ chức phe giáp, lệ tục riêng, đều có tên Nôm là “Giỗ”, gồm: Giỗ Đông, Giỗ Dong và Giỗ Hương thuộc tổng Hà Lỗ. Làng Hà Lỗ được khai phá từ rất sớm.
Việc các làng đều thờ các vị thần gắn liền với thời kỳ lập nước sơ khai là một trong những tư liệu minh chứng cho điều đó. Vào những năm 1974 - 1978, tại làng đã phát hiện được lọ gốm cổ thời Đông Hán có niên đại cách ngày nay xấp xỉ 2.000 năm. Dưới chân thành Cái Cao ở Hà Phong đã tìm thấy chiếc trống đồng cỡ nhỏ - một trong những sản phẩm tiêu biểu nhất của văn hóa Đông Sơn.
Liên Hà 10 vị đại khoa
Nằm trong huyện Đông Ngàn xưa, các làng Hà Vĩ, Đại Vĩ, Hà Lỗ, Hà Phong sớm có truyền thống hiếu học và khoa bảng. Tính trọn vẹn các làng của xã Liên Hà cũ thì có đến hàng chục người đỗ đại khoa, làm quan lớn trong triều ngoài nội, như: Dương Văn Đán, Lương Hối, Dương Bính, Đỗ Túc Khang, Ngô Tông Củ, Nguyễn Trác, Nghiêm Văn Hậu, Viêm Nghĩa Lộ, Ngô Chấp Trung, Dương Cảo.
Theo các nguồn sử liệu đăng khoa, Dương Văn Đán chính là người khai khoa của Liên Hà. Các nguồn sử liệu triều Lê ít ghi chép về ông, song tại Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Mùi đời vua Lê Thánh Tông (1463), do Đông các Hiệu thư Đào Cử soạn cho biết, Dương Văn Đán đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) - cùng khoa với Trạng nguyên Lương Thế Vinh.
Trong bản chú thích của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) ghi rõ: Dương Văn Đán (?-?) người xã Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn (thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội). Ông làm quan Thừa chính sứ và được cử đi sứ (năm 1486) sang nhà Minh (Trung Quốc)”.
Văn bia khoa thi này cũng cho biết, “vận hội văn chương tựa sao sáng, nhân tài như mây họp. Gặp năm có khoa thi lớn, kẻ sĩ ca bài Lộc minh mà đến, đông tới 1.400 người, để cùng nhau đua tranh tài nghệ trong chốn xuân vi, hạng xuất sắc chọn được 44 người…
Ban cho bọn Lương Thế Vinh trở xuống đỗ Tiến sĩ cập đệ, xuất thân thứ bậc có khác nhau. Vua ngự điện Kính Thiên, cho gọi loa xướng tên người thi đỗ. Quan bộ Lễ rước bảng vàng ra yết ngoài cửa Đông Hoa để cho các sĩ tử xem tên. Lại ban áo mũ, yến tiệc để tỏ ý yêu mến đặc biệt, ơn sủng thật trọng hậu”.
Người thứ 2 ở Liên Hà đỗ đại khoa là Lương Hối. Một số nguồn sử cho rằng, ông đỗ cùng khoa với Dương Văn Đán, tuy nhiên văn bia Tiến sĩ khoa thi năm Quý Mùi (1463) không có tên Lương Hối. Tra bảng tên khoa thi, Lương Hối đỗ sau 3 năm so với Dương Văn Đán, tức vào năm Bính Tuất (1466). Vào khoa thi này, Lương Hối đỗ thứ 5 trong số 8 người hàng Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. Sau này, ông làm Vương phó (thầy dạy học các vuơng tử).
Sau Lương Hối là Tiến sĩ Dương Bính đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Mậu Tuất (1478), làm quan đến chức Thừa chính sứ. Dương Bính là tằng tổ của Tiến sĩ Dương Cảo.
Ngô Tông Củ đỗ Hoàng giáp khoa Giáp Tuất đời Lê Tương Dực (1514), làm quan Lễ bộ Tả Thị lang. Trong văn bia đề danh Tiến sĩ, phần chú thích của Viện Nghiên cứu Hán Nôm ghi Ngô Tông Củ là Ngô Tòng Củ. Sau Ngô Tông Củ là Nghiêm Văn Hậu đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Dần đời Lê Chiêu Tông (1518), làm quan Tham chính sứ.
20 năm sau, vào thời nhà Mạc, tại Liên Hà có Nguyễn Trác đỗ khoa Mậu Tuất đời Mạc Đăng Doanh (1538), làm quan đến chức Hiến sát sứ. Cùng thời này, Viêm Nghĩa Lộ đỗ Tiến sĩ khoa Tân Sửu đời Mạc Phúc Hải (1541), làm quan Hàn lâm viện Hiệu thảo.
Ngô Chấp Trung gốc làng Đại Vĩ, trú quán thôn Hà Lỗ, đỗ Tiến sĩ khoa Quý Sửu đời Mạc Phúc Hải (1553), làm quan Hiến sát sứ. Theo gia phả họ Ngô, Ngô Chấp Trung là con trai Hoàng giáp Ngô Tòng Củ, cháu nội Thang tiên tổ Ngô Trí Quang - thủy tổ họ Ngô xã Liên Hà.
Dương Cảo - cháu tằng tôn Tiến sĩ Dương Bính, đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Thìn đời Lê Thần Tông (1628), làm quan Tế tửu Quốc Tử Giám. Theo văn bia đề danh Tiến sĩ, trong khoa thi năm 1628, Dương Cảo đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), tên đứng thứ nhất. Khoa thi này, Giang Văn Minh đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa).
Đền Đồng Thụ tại Thái Nguyên thờ con gái Tiến sĩ Đỗ Túc Khang – bà Đỗ Thị Mỹ Mai.
Đình Hà Lỗ thuộc Liên Hà (nay là xã Thư Lâm, Hà Nội).
Họ Đỗ khoa danh, 4 anh em đều đỗ Tiến sĩ
Ngoài ra, Liên Hà còn một nhà khoa bảng nổi tiếng tên là Đỗ Túc Khang (1470 - 1523), nguyên có tên là Đỗ Vĩnh Khang. Nếu xếp thứ tự danh sách đỗ đạt ở Liên Hà, Tiến sĩ Đỗ Túc Khang tuy không phải là người khai khoa nhưng là một trong số những vị đại khoa đỗ đạt sớm trong vùng.
Các nguồn sử liệu cho biết, năm 23 tuổi Đỗ Túc Khang đi thi Hương trúng tam trường, năm 26 tuổi ông lại đi thi Hương trúng Tứ trường, năm 27 tuổi niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496) ở khoa thi Bính Thìn, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân và được vua ngự bút cho đổi tên là Đỗ Túc Khang.
Năm đầu thời Cảnh Thống (1498) ông được ban chức Tri huyện huyện Thủy Đường phủ Kinh Môn, ba năm sau được thăng làm Giám sát Ngự sử đạo Hải Dương. Năm năm sau được thăng làm Đoán sự vệ Kim Ngô. Vào dịp Tết Nguyên đán năm thứ 2 đời Đoan Khánh do không biết nên tên Chưởng quan vệ để ngựa chạy sổng mất nên vì việc này mà ông bị giáng chức.
Mấy năm sau được xá tội cho phục chức làm Đoán sự vệ Cẩm y. Năm năm lại được thăng làm Hiến sát sứ đạo Hưng Hoá. Sáu năm được thăng làm Hiến sát sứ đạo Sơn Nam. Năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) được thăng làm Lưu tướng quân Đoán sự vệ Kim Ngô.
Năm Hồng Thuận thứ 4 (1512) được thăng làm Thừa tham hộ đạo Hải Dương, năm Hồng Thuận thứ 5 (1513) được cử giữ chức Tham chính đạo Sơn Tây, năm Hồng Thuận thứ 7 (1515) tháng Giêng cha mẹ mất nên phải về chịu tang. Đến tháng 10 năm đó vâng theo mật sắc đem quân đến vùng Kinh Bắc đánh giặc. Đến tháng 12 lại vâng mệnh giữ chức Thừa ti Tham chính đạo Sơn Tây đến vùng Kinh Bắc đóng doanh trại.
Đầu năm Quang Thiệu lại vâng mệnh sắc chỉ đi đánh giặc lại lập được công trạng và được ban thưởng cho ở lại doanh trại đó. Hàng ngày các quan Thừa chính nhị ti cùng các quan lại ở các phủ huyện đều đến báo cáo công việc.
Sau hai năm dẹp xong giặc ông được phong chức Tán trị Thừa chính sứ ty các xứ Kinh Bắc. Ông đã dẹp yên được bọn Nguyễn Công Độ, Nguyễn Thông, Nguyễn Nùng ở các vùng vì thế được thăng làm Đặc tiến Kim tử Vinh Lộc Đại phu, kiêm chức Tán trị Thừa chính sứ ti các xứ Thái Nguyên.
Tháng 12 năm thứ hai niên hiệu Thống Nguyên (1523), vua lại sai ông làm tướng đem quân đi đánh giặc ở vùng Thái Nguyên. Nhân lúc về qua nhà vào ngày mùng 6 tháng 2 thì ông mất, hưởng thọ 53 tuổi.
Mỗi thôn làng của Liên Hà đều để lại những dấu tích khoa bảng nức tiếng một thời.
Tuy nhiên, một số nguồn sử liệu lại cho biết, Tiến sĩ Đỗ Túc Khang mất năm 1534. Khi nhà Mạc thay nhà Lê, Đỗ Túc Khang về nghỉ tại quê nhà, đồng thời tiến cử con gái Đỗ Thị Mỹ Mai thay mình dẹp loạn.
Bà Đỗ Thị Mỹ Mai là con gái út của Tiến sĩ Đỗ Túc Khang, từ nhỏ bà rất ham học, văn hay chữ tốt, lại giỏi võ nghệ. Năm Đình Hợi (1527), vừa tròn 20 tuổi, bà xin thay cha làm nhiệm vụ trấn dẹp các toán trộm cướp ở vùng Phổ Yên, Phú Bình (xứ Thái Nguyên), đem lại cuộc sống yên lành cho nhân dân.
Sau do tương quan lực lượng chênh lệch, bà phải lui quân. Giặc đuổi theo, đến cầu sông Trấn Giang, thế cùng, bà gieo mình tự vẫn khi mới 21 tuổi. Thương tiếc bà, nhân dân nhiều làng xã trong vùng đã lập đền thờ, hiện còn đạo sắc niên hiệu Duy Tân (1911), phong cho bà là “Diên Bình công chúa”, cho phép xã Thượng Dã, phủ Đa Phúc, tỉnh Phúc Yên phụng thờ.
Tiến sĩ Đỗ Túc Khang có 4 người em đều là những bậc anh tài của đất nước, gồm Đỗ Đại Uyên - tục gọi là cụ nghè Me (làng Me, Bắc Ninh) đỗ Hoàng giáp, nay vẫn còn đền thờ tại quê hương. Đỗ Túc Khiêm đỗ Thám hoa, sau ngụ tại làng ở huyện Từ Liêm cũ. Đỗ Danh đỗ Tiến sĩ, sau làm quan đến chức Thượng thư, sau con cháu lập nghiệp tại thôn Tức Mạc, Nam Định (nay là Ninh Bình).
Người em thứ tư là Đỗ Viên Nghị được triều đình nhà Lê phong Phục tướng quân, Bắc quản đô đốc, Chánh quản thần vũ vệ, Xuyên đinh quang hầu. Gia đình ông về ở làng Bồng Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
Theo dòng họ Đỗ đại tôn, hiện nay đền thờ bà Đỗ Thị Mai ở Phổ Yên, Thái Nguyên và nhà thờ Tiến sĩ Đỗ Túc Khang ở xã Liên Hà cũ - Lâm Thư mới (Hà Nội) đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa, trở thành những địa chỉ để con cháu dòng họ và thế hệ trẻ đến tưởng nhớ, học tập theo gương sáng tiền nhân.
Các thôn làng của xã Liên Hà cũ trong thời kỳ khoa bảng phong kiến, ngoài 10 vị đại khoa, riêng làng Hà Vĩ còn có 16 người đỗ Hương cống, nhiều người đỗ tiểu khoa (học vị Sinh đồ, Tú tài). Làng Đại Vĩ có 4 người đỗ Hương cống, nhiều người đỗ tiểu khoa, làng Hà Lỗ có 10 đỗ Hương cống, Cử nhân, nhiều người đỗ Sinh đồ, Tú tài.
Đen Vâu ủng hộ 855 triệu đồng để xây sửa các điểm trường bị thiệt hại do bão lũ
Trên trang fanpage với hơn 5,2 triệu người theo dõi, Đen Vâu vừa hân hoan chia sẻ tổng doanh thu MV "Nấu ăn cho em" từ ngày 1/10/2024 đến 31/5/2025 khai thác từ nhiều nền tảng là hơn 855 triệu đồng.
"Tất cả doanh thu đợt này chúng em xin phép sẽ chuyển toàn bộ vào STK của Quỹ Vì người nghèo Trung ương. Chúng em mong mỏi số tiền này sẽ được phân bổ để xây mới hoặc sửa chữa các điểm trường bị thiệt hại trong cơn bão lũ vừa qua vì năm học mới sắp đến rồi", Đen Vâu chia sẻ.
Đen Vâu thông báo doanh thu từ MV Nấu Ăn Cho Em.
Bên cạnh đó, nam rapper bộc bạch thêm rằng: "Đen xin cảm ơn quý khán giả bốn phương đã ngày ngày lắng nghe và ủng hộ, cảm ơn các chương trình đã sử dụng bài hát.
Các cụ dạy 'một cây làm chẳng nên non' chẳng bao giờ sai cả. Yêu thương nhau, chung tay và đoàn kết, chúng ta cùng nhau ra sức để làm những điều bản thân thấy vui và có ích cho xã hội nhé cả nhà.
Chúc mọi người mạnh khoẻ, có nhiều việc để làm, và tâm trí luôn thanh tỉnh tràn trề nhựa sống!".
Ngoài ra, theo chính chủ tiết lộ tính từ 14/6/2023 đến nay, team Đen Vâu đã chuyển 2,86 tỷ đồng. Doanh thu đến từ sản phẩm âm nhạc này được Đen Vâu chuyển đến các đơn vị, trung tâm hỗ trợ cho trẻ em vùng cao được tiếp cận giáo dục.
Trước đó, vào sáng 13/5, MV ca nhạc "Nấu ăn cho em" của Đen Vâu đã chính thức được phát hành.
MV đã ghi lại hành trình của Đen và những người bạn khi lên vùng cao thăm các em nhỏ tại 2 điểm trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học và Trung học cơ sở Sá Tổng (Mường Chà, Điện Biên).
Hình ảnh trong MV "Nấu ăn cho em" của Đen Vâu.
Nói về cảm xúc trong chuyến thăm hai điểm trường, Đen Vâu xúc động cho hay: "Lên đây mới biết sự đóng góp của mình cho dự án 'Nuôi em' chỉ là một phần nhỏ trong việc tiếp sức các em. Để các em học được cái chữ, đó là một công lao to lớn của các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức và các thầy cô giáo tại địa phương đã tuyên truyền, động viên và nâng đỡ để bà con trên bản hiểu được tầm quan trọng của việc học.
Khi lên tới nơi và cảm nhận, tôi mới hiểu rằng không phải xây một ngôi trường, mời thầy cô về dạy là các em đi học, mà cần có những tâm huyết lớn lao của rất nhiều người".
Bên cạnh đó, trong phần cuối MV, Đen Vâu đã tiết lộ sẽ dành tặng toàn bộ doanh thu từ lượt nghe và xem của bài hát này để xây trường và nuôi các em nhỏ.
Nam rapper từng tâm sự: "Tôi nghĩ nếu mình viết được một bài nhạc rồi sau đó lấy doanh thu để lo cho các em một cách đều đặn thì tốt biết mấy. Thế là tôi bắt tay vào viết. Thật may là khi lên thăm các em và trở về, tôi lại càng có đầy đủ cảm xúc hơn để hoàn thành bài nhạc".
Loạt chương trình hấp dẫn kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Nhằm kỷ niệm 80 năm Ngày Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9, loạt sự kiện văn hóa – nghệ thuật mang tầm quốc gia đã và sẽ được tổ chức, với mục tiêu tạo nên hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ, khơi dậy tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, tinh thần đoàn kết dân tộc và ý chí tự lực, tự cường.
Theo đó, ngoài các sự kiện âm nhạc có quy mô lớn như “V Concert - Rạng rỡ Việt Nam”, “V Fest - Thanh xuân rực rỡ” tổ chức trong 2 ngày 9-10/8, “Tổ quốc trong tim” tổ chức tại sân vận động Mỹ Đình ngày 10/8 đã diễn ra trước đó, vào ngày 15/8, chương trình "Hà Nội – Từ mùa Thu lịch sử năm 1945” tại Quảng trường Cách mạng Tháng Tám sẽ góp phần khắc họa hình ảnh lịch sử vĩ đại của Thủ đô khi là trung tâm chuyển mình của đất nước.
Chương trình “Tự hào là người Việt Nam”.
Tới ngày 17/8, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp Bộ Văn hóa – Thể thao & Du lịch, UBND Hà Nội, Đài Truyền hình Việt Nam và các đơn vị liên quan tổ chức chương trình nghệ thuật quy mô cấp quốc gia “Tự hào là người Việt Nam” tại Quảng trường Mỹ Đình (Hà Nội).
Đây được xem là điểm nhấn quan trọng, vừa tôn vinh lịch sử vẻ vang, vừa thắp lên lòng biết ơn các thế hệ cha anh đi trước.
Tiếp nối các hoạt động nghệ thuật đặc sắc kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, vào ngày 31/8/2025, tại Trung tâm Triển lãm Quốc gia, chương trình “Hà Nội – Sáng mãi khát vọng Việt Nam” gồm ba phân khúc – “Hà Nội ngày, tháng, năm”, “Hà Nội trong mắt ai” và “Việt Nam ngày mới” sẽ được tổ chức.
Chương trình kết hợp ca nhạc, múa đương đại, công nghệ 3D và sự tham gia của các nghệ sĩ nổi tiếng, khẳng định vai trò của Thủ đô trong 80 năm phát triển.
Tới ngày 1/9/2025, chương trình nghệ thuật phục vụ Nhân dân được tổ chức tại sân Mỹ Đình như lời tri ân sâu sắc đến toàn dân trong ngày hội lớn, với quy mô lớn chưa từng có.
Ngoài ra, tại Hà Nội còn tổ chức triển lãm thành tựu kinh tế – xã hội cấp quốc gia từ 28/8 đến 5/9 tại Trung tâm Triển lãm Quốc gia (Cổ Loa, Đông Anh), cùng triển lãm ảnh và tem bưu chính phản ánh 80 năm phát triển đất nước.
Tại các địa phương như Quảng Ninh, chương trình nghệ thuật ca múa nhạc kết hợp các liên khúc cách mạng như “Cùng nhau đi Hồng binh”, “Mười chín tháng Tám”, mang đậm bản sắc vùng Đông Bắc, tổng duyệt vào ngày 1/8.
Tại Quảng Ngãi, ngoài tuyên truyền lưu động, địa phương còn tổ chức chương trình nghệ thuật đặc biệt, triển lãm và các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” gắn với lịch sử địa phương.
Chuỗi sự kiện không chỉ là dịp người dân nhìn lại, mà còn là dịp để thế hệ trẻ tri ân lịch sử, khơi dậy trách nhiệm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Công nghệ tái hiện hành trình 80 năm giữ vững lời thề độc lập
Hơn 300 hình ảnh, tài liệu, hiện vật tại triển lãm “Giữ trọn lời thề độc lập” qua lăng kính công nghệ, đưa người xem ngược dòng thời gian trở về mùa Thu lịch sử năm 1945.
Hành trình lịch sử sống động
Triển lãm do Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam tổ chức, hướng tới kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9. Đây không chỉ là một hoạt động văn hóa tri ân lịch sử, mà còn là hành trình kết nối giữa các thế hệ người Việt với những giá trị thiêng liêng đã được hun đúc qua các cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại.
Với hơn 300 hình ảnh, tài liệu, hiện vật được lựa chọn kỹ lưỡng, triển lãm “Giữ trọn lời thề độc lập” tái hiện sinh động chặng đường đấu tranh đầy hi sinh, gian khổ nhưng vô cùng vẻ vang. Triển lãm được chia thành ba phần, tương ứng với ba giai đoạn lịch sử trọng đại, khắc họa sâu sắc tinh thần kiên cường và khát vọng độc lập, tự do.
Phần mở đầu của triển lãm mang tên “Mùa Thu độc lập” đưa người xem trở lại thời điểm lịch sử khi đất nước còn chìm trong bóng tối dưới ách nô lệ thực dân Pháp. Từ đó, hành trình giải phóng bắt đầu với sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nổi bật trong phần trưng bày này là những tư liệu quý về quá trình chuẩn bị lực lượng, chớp thời cơ và thực hiện Tổng khởi nghĩa Tháng Tám - sự kiện mang tính bước ngoặt đưa dân tộc bước sang trang sử mới. Khoảnh khắc Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” tại Quảng trường Ba Đình được tái hiện sống động, nhấn mạnh tinh thần đoàn kết, khí thế sục sôi và quyết tâm giữ vững nền độc lập vừa giành được.
Ở phần 2, Ban tổ chức chọn chủ đề “Giữ trọn lời thề”, tái hiện chặng đường trường kỳ đấu tranh qua các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chiến tranh bảo vệ biên giới và thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Mỗi hiện vật, mỗi bức ảnh là một lát cắt lịch sử, khắc họa hình ảnh đất nước trong lửa đạn chiến tranh nhưng không bao giờ khuất phục.
Từ những khẩu hiệu cách mạng, lá cờ chiến thắng đến những lá thư của người lính như gợi lại khí thế hào hùng của một giai đoạn gian khổ. Đặc biệt, hình ảnh và tư liệu về chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh hay cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, phía Tây Nam càng nhấn mạnh tinh thần “giữ trọn lời thề độc lập” mà cả dân tộc đã cùng nhau gìn giữ suốt 80 năm qua.
“Vinh quang Việt Nam” là chủ đề khép lại phần trưng bày với những thành tựu to lớn của đất nước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế. Trong đó, hình ảnh người lính là lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc, và những người lính mũ nồi xanh tham gia các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam.
Khách tham quan trải nghiệm tương tác với công nghệ AR.
Lịch sử qua lăng kính công nghệ
Điểm nhấn quan trọng của triển lãm là sự xuất hiện của nhiều tài liệu, hiện vật quý hiếm, một số lần đầu tiên được công bố. Trong đó có thể kể đến “Bản Tuyên ngôn độc lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9/1945; bộ sưu tập báo chí cách mạng giai đoạn cao trào 1941 - 1945, tái hiện hoạt động tuyên truyền đấu tranh giành độc lập.
Ấn “Hoàng đế chi bảo” phục chế - biểu tượng quyền lực của chế độ phong kiến, đánh dấu thời khắc chuyển giao lịch sử sang một kỷ nguyên mới; giấy bạc “Cụ Hồ” - loại tiền đầu tiên do Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát hành, thể hiện chủ quyền tài chính quốc gia; mô hình phục chế “Cột mốc A Pa Chải” - biểu tượng thiêng liêng nơi “một con gà gáy, ba nước đều nghe”, nhấn mạnh ý chí bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đến từng tấc đất.
Không dừng lại ở việc trưng bày hiện vật truyền thống, triển lãm còn là sự kết hợp giữa lịch sử và công nghệ, với việc ứng dụng mạnh mẽ thực tế ảo tăng cường (AR) và thực tế ảo (VR). Những công nghệ này đã làm sống lại lịch sử bằng cách cho phép khách tham quan trải nghiệm tương tác, trực quan và sinh động.
Người xem có thể sử dụng kính VR đem lại cảm giác như đang đứng giữa Quảng trường Ba Đình, chứng kiến khoảnh khắc “Tuyên ngôn độc lập” được vang lên. Người xem cũng có thể phóng to và xoay chuyển mô hình 3D của các hiện vật quý như ấn tín, cột mốc, tiền cổ...
Triển lãm trưng bày nhiều hiện vật quý, một số lần đầu công bố.
Công nghệ AR cũng cho phép khách tương tác trực tiếp qua điện thoại hoặc thiết bị chuyên dụng, mang lại cảm giác nhập vai, gần gũi hơn với lịch sử.
Việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong quá trình phục dựng hình ảnh, giọng nói và không gian lịch sử đã góp phần làm nên một triển lãm sống động, giúp lịch sử không còn khô cứng, mà trở thành những trải nghiệm chân thực và dễ tiếp cận với công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Không chỉ là một sự kiện trưng bày, triển lãm, mà còn là nơi truyền cảm hứng, khơi dậy lòng tự hào và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân trong việc gìn giữ thành quả của cách mạng. Qua mỗi hiện vật, mỗi thước phim, người xem được nhắc nhớ về những hi sinh không thể đong đếm của cha ông để có được một Việt Nam hôm nay.
Triển lãm là minh chứng cho tinh thần “giữ trọn lời thề độc lập” không chỉ là một cam kết lịch sử, mà còn là trách nhiệm thiêng liêng trong từng bước đi của dân tộc. Đó là lời thề đã vang lên trên Quảng trường Ba Đình năm 1945, và đến hôm nay vẫn in khắc trong từng trái tim người Việt.
Theo Đại tá Lê Vũ Huy - Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, triển lãm không chỉ tái hiện khí thế hào hùng, mà còn là lời nhắc nhở sâu sắc về giá trị thiêng liêng của độc lập, tự do và chủ quyền dân tộc. Đây cũng là dịp để thế hệ hôm nay và mai sau nâng cao ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ và phát triển đất nước. Những thành tựu vẻ vang trong quá khứ sẽ trở thành động lực để Việt Nam vững bước trong kỷ nguyên mới.
Hòa Minzy, Đức Phúc cùng loạt sao Việt lan tỏa nghĩa tình đến người anh em Cuba
Trong những ngày đầu tháng 8/2025, lời kêu gọi từ Chính phủ cùng chương trình mang chủ đề “65 năm nghĩa tình Việt Nam – Cuba” đã được triển khai trên quy mô toàn quốc nhằm huy động sự ủng hộ dành cho nhân dân Cuba – một đất nước anh em đang trải qua nhiều thử thách do thiên tai, dịch bệnh và chính sách cấm vận kéo dài.
Sự kiện đã thu hút mạnh mẽ sự quan tâm từ các cấp chính quyền cũng như cộng đồng, khẳng định thông điệp đoàn kết và tinh thần “thủy chung, son sắt” với nhân dân Cuba.
Ngay sau đó, nhiều nghệ sĩ Việt đã hưởng ứng lời kêu gọi bằng hành động cụ thể. Nổi bật nhất là ca sĩ Hòa Minzy, Đức Phúc... những người đã công khai chuyển khoản 50 triệu đồng ủng hộ nhân dân Cuba.
Hòa Minzy ủng hộ 50 triệu đồng tới người dân Cuba.
Trên trang cá nhân, Hòa Minzy chia sẻ: “Làm theo lời kêu gọi của Chính phủ nước ta, Hoà Minzy xin được ủng hộ người dân Cuba và cầu chúc cho đất nước Cuba luôn bình an, đủ đầy cơm ăn áo mặc”.
Bên cạnh đó, nữ ca sĩ còn kêu gọi người hâm mộ hãy cùng chung tay lan tỏa tình yêu thương và sự sẻ chia khi nhắn nhủ: “Khán giả của Hoà cũng cùng hành động với Hoà nhé!”.
Về phía nam ca sĩ Đức Phúc, anh đã cùng công ty của mình ủng hộ nhân dân Cuba 50 triệu đồng khi bày tỏ: “Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính Phủ, Đức Phúc và Đức Phúc Entertainment xin gửi chút tấm lòng nhỏ đến người anh em Cuba. Mong đất nước Cuba sớm vượt qua khó khăn, luôn bình an, ấm no hạnh phúc”.
Nam nhạc sĩ Tăng Duy Tân ủng hộ nhân dân Cuba, kèm lời nhắn nhủ "Tôi yêu Cuba".
Tiếp nối hành động ý nghĩa của Hòa Minzy, Đức Phúc, nam nhạc sĩ Tăng Duy Tân tinh tế chia sẻ: “Ngày nào vết sẹo trên tay trái còn thì ngày đó còn biết ơn Cuba”, dù chỉ để lại thông điệp ngắn gọn nhưng ẩn chứa ý nghĩa vô cùng sâu sắc.
Bởi theo nam nhạc sĩ, thế hệ mình ai cũng có 1 vết sẹo trên tay trái. Đó là vết sẹo vaccin do Cuba viện trợ thời đất nước mình còn bị cấm vận đủ đường. Đây là lúc để thế hệ của mình trả ơn.
Hành động thiết thực từ Hòa Minzy, Đức Phúc, Tăng Duy Tân cùng nhiều người dân đất Việt đã góp phần lan tỏa tinh thần nhân ái, truyền cảm hứng cho cộng đồng.
Đặc biệt, việc các nghệ sĩ chọn công khai hình ảnh giao dịch chuyển khoản đã minh chứng cho sự minh bạch, đồng thời khơi gợi lòng thiện nguyện nơi nhiều cá nhân khác.
Không chỉ là nghĩa cử đẹp, những đóng góp từ nghệ sĩ và mạnh thường quân còn là biểu tượng sống động về tinh thần “một miếng khi đói bằng một gói khi no”, lan tỏa tình cảm đồng cảm, sẻ chia giữa nhân dân hai nước trong thời điểm Cuba đang đối diện với nhiều khó khăn chồng chất.
Qua đó, góp phần thúc đẩy phong trào thiện nguyện từ những tấm lòng nghệ sĩ tới công chúng, lan tỏa giá trị tốt đẹp trong xã hội.
Hành trình trở thành Di sản văn hóa thế giới của Quần thể Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc
Đây là kết quả của một hành trình xây dựng hồ sơ đề cử đầy gian nan nhưng đã mang lại thành công lớn cho Việt Nam và các địa phương trong vùng di sản.
Hành trình nhiều nỗ lực
Hồ sơ đề cử Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc được đánh giá là công trình khoa học đồ sộ, kết tinh từ quá trình nghiên cứu công phu kéo dài nhiều năm với sự tham gia của hàng trăm chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế.
Từ năm 2012, tỉnh Quảng Ninh bắt đầu triển khai các bước lập hồ sơ khoa học trình UNESCO công nhận Quần thể di tích, danh thắng Yên Tử là Di sản thế giới và gửi bản đăng ký lên UNESCO vào năm 2014. Hồ sơ này được website của Trung tâm Di sản Thế giới chính thức đưa vào danh mục dự kiến xây dựng hồ sơ di sản thế giới.
Ban đầu, hồ sơ tập trung vào 5 tiêu chí số 2, 3, 5, 6 và 7 theo bộ tiêu chí của UNESCO, với phạm vi di tích thuộc hai tỉnh Quảng Ninh và Bắc Giang (cũ). Sau đó, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các di tích thuộc tỉnh Hải Dương (cũ) được bổ sung vào, khiến hồ sơ cần được điều chỉnh, viết lại toàn diện.
Từ đó đến nay, Quảng Ninh đóng vai trò chủ trì trong việc lập hồ sơ, tổ chức nhiều cuộc khảo sát, hội thảo quốc gia và quốc tế nhằm lấy ý kiến chuyên gia. Năm 2015, ông Pall Dingwall - chuyên gia của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), và Giáo sư Hea Un Ri - chuyên gia của Hội đồng Quốc tế về Di tích và Di chỉ (ICOMOS), đã thực hiện các chuyến khảo sát thực địa tại ba địa phương có di sản.
Ngay sau đó, ngày 18/8/2015, một hội thảo về việc nhận diện các giá trị toàn cầu của Yên Tử được tổ chức tại Quảng Ninh, nhằm tranh thủ ý kiến chuyên gia ICOMOS cho việc xây dựng hồ sơ di sản thế giới. Theo đánh giá của các chuyên gia, thời gian để có một bộ hồ sơ hoàn chỉnh thường mất từ 5 đến 10 năm, thậm chí có quốc gia phải mất gần 20 năm. Điều này cho thấy nỗ lực và quyết tâm rất lớn từ ba địa phương trong vùng di sản.
Để đẩy nhanh tiến độ, cuối tháng 8/2020, một cuộc tọa đàm cấp quốc gia do tỉnh Quảng Ninh chủ trì, phối hợp với tỉnh Hải Dương (cũ) và Bắc Giang (cũ) đã được tổ chức tại Quảng Ninh. Tại đây, các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực văn hóa, di sản đã xác định rõ những giá trị nổi bật toàn cầu của quần thể di tích và danh thắng Yên Tử.
Tọa đàm đã thống nhất tên gọi hồ sơ là “Quần thể Di tích và Danh thắng Yên Tử”, lựa chọn 3 tiêu chí số 3, 5 và 6 để xây dựng hồ sơ, rút bớt 2 tiêu chí so với hồ sơ năm 2014.
Tháng 2/2021, báo cáo tóm tắt hồ sơ chính thức được đăng tải trên website của Trung tâm Di sản Thế giới UNESCO trong danh mục đề cử. Trong hai năm 2021 - 2022, các nhà khoa học tiếp tục triển khai 3 chuyên đề nghiên cứu về giá trị văn hóa, lịch sử, kiến trúc, địa chất - địa mạo và đa dạng sinh học để bổ sung tài liệu khoa học cho hồ sơ. Nhiều kết quả khảo cổ học, bản đồ, bản vẽ, sơ đồ địa chất, viễn thám, bản đồ phân bố di tích… đã được cập nhật.
Từ ngày 20/6 đến 3/7/2022, các chuyên gia quốc tế phối hợp với các nhà nghiên cứu Việt Nam làm việc với Sở VH-TT&DL của 3 địa phương, các ban quản lý di tích, và khảo sát thực địa toàn bộ khu vực di sản. Ngày 29/6/2022, một hội thảo khoa học quốc tế diễn ra tại Hà Nội với sự tham gia của gần 70 đại biểu trong nước và quốc tế, nhằm đánh giá các tài liệu, thống nhất các tiêu chí dự kiến đáp ứng của hồ sơ.
Ngày 19/7/2022, Bộ VH-TT&DL quyết định đổi tên hồ sơ thành “Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc”, giữ nguyên 3 tiêu chí 3, 5, 6 để xây dựng hồ sơ.
Tháng 1/2024, hồ sơ chính thức hoàn thiện và trình UNESCO. Sau khi tiếp nhận ý kiến từ ICOMOS, hồ sơ được điều chỉnh từ 20 xuống 12 điểm di tích, giữ lại 2 tiêu chí (3 và 6). Tháng 8/2024, chuyên gia ICOMOS tiến hành thẩm định thực địa. Ngày 28/2/2025, hồ sơ tiếp tục được bổ sung và gửi lại Trung tâm Di sản Thế giới và ICOMOS. Quảng Ninh cũng tích cực tham gia các đoàn công tác đối thoại cấp chuyên gia với ICOMOS, đồng thời dự Kỳ họp lần thứ 221 của Hội đồng Chấp hành UNESCO tại Pháp từ ngày 6 - 9/4/2025.
Bà Nguyễn Thị Hạnh - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh, Phó ban Chỉ đạo -Trưởng ban điều hành xây dựng hồ sơ Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc cho biết, gần đây nhất là từ ngày 10 - 17/6/2025, Quảng Ninh đã tổ chức đoàn công tác do lãnh đạo tỉnh làm trưởng đoàn, tham dự cùng đoàn của Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam đi Cộng hòa Pháp, tiến hành cuộc vận động hợp pháp cho hồ sơ Quần thể di sản đề cử.
Sự kiện quảng bá giá trị văn hóa, tâm linh của quần thể di sản được tổ chức tại Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Pháp. Đoàn đã làm việc trực tiếp với Tổng Giám đốc UNESCO Audrey Azoulay, Giám đốc Trung tâm Di sản Thế giới Lazare Eloundou Assomo, Tổng Giám đốc ICOMOS Marie Laure Lavenir, cũng như gặp gỡ riêng 20 đại sứ, trưởng phái đoàn các nước thành viên Ủy ban Di sản Thế giới và đại diện Bulgaria - Chủ tịch kỳ họp - để đề nghị hỗ trợ ghi danh.
Chùa Vĩnh Nghiêm hay chùa Đức La (Bắc Giang cũ) nay thuộc xã Tân An, tỉnh Bắc Ninh. Ảnh: H.G.
Đền Kiếp Bạc hiện nằm ở phường Trần Hưng Đạo, TP Hải Phòng (trước đây thuộc TP Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Ảnh. T.T.
Niềm vui vỡ òa
Lúc 13 giờ 2 phút ngày 12/7/2025 (giờ Paris), tức 18 giờ 2 phút, giờ Việt Nam, tại Kỳ họp lần thứ 47 của Ủy ban Di sản Thế giới UNESCO tổ chức ở Paris (Pháp), Giáo sư Nikolay Nenov (Bulgaria) - Chủ tịch kỳ họp - đã chính thức tuyên bố công nhận Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc là Di sản văn hóa thế giới. Đây là di sản thế giới thứ 9 của Việt Nam, đồng thời là di sản liên tỉnh thứ hai sau Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà.
Quần thể gồm 12 điểm di tích trải dài trên ba địa phương: Quảng Ninh, Hải Phòng và Bắc Ninh; có vùng lõi 525,75 ha và vùng đệm 4.380,19 ha. Các điểm tiêu biểu gồm: Thái Miếu, chùa Hoa Yên, chùa Lân, chùa Ngọa Vân, bãi cọc Yên Giang (Quảng Ninh); chùa Côn Sơn, đền Kiếp Bạc, chùa Thanh Mai, động Kính Chủ, chùa Nhẫm Dương (Hải Phòng); chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà (Bắc Ninh).
Cốt lõi của di sản là Phật giáo Trúc Lâm - dòng Thiền Việt Nam do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập vào thế kỷ XIII. Phật giáo Trúc Lâm tạo ra một hệ thống triết lý và tinh thần khoan dung, hòa hợp giữa đạo Phật, Nho giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng bản địa, góp phần to lớn vào di sản văn hóa nhân loại.
Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc, với Phật giáo Trúc Lâm làm cốt lõi, được thành lập vào thế kỷ XIII bởi các vua nhà Trần, đặc biệt là vai trò của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Phật giáo Trúc Lâm đã sáng tạo nên nhiều giá trị, đóng góp đặc biệt, bền vững cho di sản văn hóa và tinh thần của nhân loại.
Bắt nguồn từ cảnh quan núi thiêng Yên Tử, Phật giáo Trúc Lâm đại diện cho một hệ thống triết lý và tinh thần khoan dung, vị tha của Phật giáo. Phật giáo Trúc Lâm cũng là minh chứng cho sự kết hợp hài hòa giữa Phật giáo Đại thừa với đạo đức Nho giáo, vũ trụ quan Đạo giáo và tín ngưỡng bản địa Việt Nam.
Các giá trị tư tưởng, văn hóa của Phật giáo Trúc Lâm về tinh thần hòa giải, hòa hợp và hòa bình hoàn toàn phù hợp với mục tiêu cơ bản của UNESCO trong việc duy trì, làm phong phú các giá trị chung của nhân loại: Giáo dục, xây dựng văn hóa hòa bình; tinh thần tự chủ, kết hợp hài hòa giữa con người và thế giới tự nhiên, tôn trọng quy luật của tự nhiên.
Thông qua các đền thờ, am thất, tuyến hành hương, bia đá, mộc bản và các di tích được bảo tồn nghiêm cẩn, phân bố trên một không gian rộng lớn từ Yên Tử đến Vĩnh Nghiêm và Côn Sơn - Kiếp Bạc, di sản phản ánh đầy đủ các giai đoạn phát triển của Phật giáo Trúc Lâm: Từ việc thành lập và thể chế hóa đến sự phục hưng và tiếp tục lan tỏa giá trị sáng tạo, nhân văn.
Các điểm di tích này được hình thành từ nhiều thế kỷ trước, luôn thể hiện sự phát triển tiếp nối, đóng vai trò là trung tâm tôn giáo, văn hóa tâm linh, là điểm đến của hàng triệu du khách mỗi năm.
Chuyên gia các nước tới chúc mừng đoàn Việt Nam. Ảnh: INT.
Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc được công nhận theo tiêu chí (iii) và (vi): Tiêu chí (iii): Minh chứng cho sự kết hợp hài hòa giữa Nhà nước, tôn giáo và cộng đồng dân cư tại vùng đất thiêng Yên Tử, hình thành truyền thống văn hóa độc đáo, có ý nghĩa toàn cầu, góp phần định hình bản sắc dân tộc, thúc đẩy hòa bình khu vực; Tiêu chí (vi): Phản ánh tầm ảnh hưởng sâu rộng của Phật giáo Trúc Lâm - dòng Thiền duy nhất ở châu Á được sáng lập bởi một vị vua thoái vị đi tu, kết hợp các tín ngưỡng, góp phần thúc đẩy xã hội thế tục phát triển, bảo đảm hòa bình và hợp tác khu vực.
Quần thể liên quan trực tiếp đến sự sinh thành và lan tỏa giá trị sáng tạo, nhân văn của Phật giáo Trúc Lâm. Việc liên tục tổ chức các nghi lễ, lễ hội, hoằng dương Phật pháp và hành hương đến các điểm di tích - cả ở Việt Nam và các tổ chức Phật giáo Trúc Lâm quốc tế - chứng minh sự liên quan toàn cầu bền vững của triết lý nhân sinh, giá trị sống, tinh thần cộng đồng xã hội, sống hài hòa với thiên nhiên, yêu chuộng hòa bình và lòng nhân ái.
Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc chính thức được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới là niềm tự hào lớn không chỉ với những địa phương trong vùng di sản mà còn của toàn dân tộc. Di sản của Việt Nam đã được thế giới biết đến, chiêm ngưỡng và tôn vinh. Quảng Ninh sẽ tiếp tục triển khai đề án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di sản một cách bền vững. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với Hải Phòng và Bắc Ninh xây dựng không gian di sản thống nhất, đảm bảo thực hiện đầy đủ Công ước Di sản Thế giới, gắn với phát triển bền vững, góp phần quảng bá vẻ đẹp đất nước và con người Việt Nam ra thế giới. Bà Nguyễn Thị Hạnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh
Cuộc thi 'Bản Sắc' góp phần lan tỏa mạnh mẽ các giá trị văn hóa, tinh thần Việt Nam đến quốc tế
(Chinhphu.vn) - Sáng 15/8, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chính thức phát động Cuộc thi “Bản Sắc”. Cuộc thi sẽ góp phần lan tỏa mạnh mẽ các giá trị văn hóa, tinh thần Việt Nam đến cộng đồng trong nước và quốc tế.