Dù trải qua nhiều thăng trầm, các nghệ nhân nơi đây vẫn kiên trì giữ gìn “hồn cốt”, không ngừng sáng tạo để nghề truyền thống này tiếp tục tỏa sáng giữa nhịp sống hiện đại.
Âm vang hơn 600 năm tuổi
Dọc theo con đường chính của làng, bất cứ nơi nào cũng nghe thấy tiếng khò lửa phập phùng, tiếng mài, búa lách cách đều đặn vang lên từ những người thợ lành nghề. Những âm thanh ấy chính là nhịp đập tạo nên hàng loạt sản phẩm tinh xảo.
Nói về lịch sử làng nghề, các nghệ nhân trong làng cho biết Đồng Xâm (tên gốc là Đường Thâm) hình thành từ cuối thời Trần - Hồ, đầu thế kỷ XV. Lúc đó, ông Nguyễn Kim Lâu vốn làm nghề hàn xanh, nồi đồng tại châu Bảo Lạc (nay thuộc Cao Bằng). Trong thời gian hành nghề, ông đã học được nghề kim hoàn và trở về làng truyền dạy cho dân.
Ban đầu, người dân trong làng chỉ làm nghề đồng doa, sửa chữa các đồ dùng bằng đồng. Sau đó, nghề phát triển thành mỹ nghệ, chuyên chạm khắc các đồ gia dụng bằng đồng và dần dần tiến tới làm đồ trang sức bằng vàng, bạc. Trong thời kỳ hưng thịnh nhất, các nghệ nhân Đồng Xâm đi khắp mọi miền đất nước, lan tỏa tinh hoa và giá trị của làng nghề.
Thời Nguyễn, họ còn vào tận Huế để chạm trổ cung kiếm, đồ trang sức cho triều đình. Cùng với Hàng Bạc và Định Công (Hà Nội), Đồng Xâm được biết đến là ba địa danh nổi tiếng của Việt Nam với nghề chạm bạc truyền thống, mỗi nơi mang bí quyết riêng, tạo nên nét độc đáo, tinh xảo cho từng thương hiệu.
Nghề chạm bạc đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại và chỉn chu đến từng tiểu tiết. Chính sự tỉ mỉ, tinh tế và tay nghề điêu luyện của người thợ đã làm nên sự khác biệt cho sản phẩm chạm bạc Đồng Xâm, từ kiểu dáng đến bố cục trang trí.
Gắn bó với nghề gần 50 năm, ông Nguyễn Thế Dân (69 tuổi) cho biết để làm ra một sản phẩm chạm bạc hoàn chỉnh cần nhiều thời gian và trải qua rất nhiều công đoạn, trong đó có bốn công đoạn chính: Trơn, chạm, đậu và đấu.
Trơn là công đoạn làm nhẵn, bóng, kết hợp với việc gò để tạo thành hình khối sản phẩm; Chạm là khắc hình vẽ, hoa văn, họa tiết, như chạm ám hay thúc nổi trên mặt sản phẩm; Đậu là kéo bạc đã nung chảy thành sợi chỉ, sau đó se thành sợi mảnh như tóc để tạo họa tiết hoa văn gắn vào sản phẩm; Đấu là ghép các chi tiết vào với nhau.
Làng Đồng Xâm nổi tiếng với công đoạn chạm, được xem là khó nhất bởi đòi hỏi sự tỉ mỉ và tập trung cao độ hơn bất kỳ công đoạn nào khác. Chỉ một sai sót nhỏ cũng có thể khiến thành quả bị hủy bỏ. Theo ông Dân, để làm ra những sản phẩm tinh xảo, vừa lấp lánh ánh kim, vừa mềm mại và có “hồn” trong từng đường nét, hoa văn, người thợ phải đạt đến trình độ điêu luyện.
Bản thân người thợ cần có năng khiếu, tình yêu nghề, óc sáng tạo, hiểu rõ thủ pháp xử lý sáng - tối, biết tận dụng đặc tính phản quang của chất liệu bạc và vận dụng các kỹ thuật chế tác khéo léo để tạo nét cho sản phẩm. Ngoài ra, công đoạn chế tác còn đòi hỏi sự tập trung cao độ và sự tỉ mỉ tuyệt đối.
Ngoài công đoạn chạm, đấu cũng là bước cần sự chính xác rất cao. “Đấu là công đoạn gần như cuối cùng, đòi hỏi tay nghề tinh xảo và quan trọng nhất là khả năng kiểm soát ngọn lửa, tránh làm chảy bạc gây hỏng sản phẩm. Đây cũng chính là bước khó khăn nhất trong quy trình hàn ghép bạc”, ông Dân chia sẻ.


Thích ứng với thị trường
Kế thừa bí quyết của cha ông, các nghệ nhân Đồng Xâm chỉ cần công cụ thô sơ cũng có thể chạm, khắc ra các sản phẩm với đường nét hoa văn tinh xảo. Ông Triệu Đăng Khoa - Chủ tịch Hội làng nghề chạm bạc Đồng Xâm, cho biết: Để đáp ứng nhu cầu thị trường và giữ nghề truyền thống không bị mai một, ngoài sản phẩm chạm bạc truyền thống, làng nghề còn phát triển thêm mặt hàng chạm đồng hoặc mạ bạc.
Hiện nay, sản phẩm chia làm hai mảng chính: Một số cơ sở vẫn duy trì làm nghề truyền thống, bao gồm chạm thủ công mỹ nghệ; số còn lại chuyển hướng làm nghề hiện đại, đầu tư công nghệ và máy móc để sản xuất các sản phẩm gia dụng hoặc trang trí nội thất. “Để đáp ứng thị hiếu khách hàng, mẫu mã sản phẩm của Đồng Xâm cũng đa dạng hơn, từ đồ trang sức, đồ thờ cúng cho đến vật dụng trong gia đình và cả trang trí nội thất… Dù thuộc dòng sản phẩm nào, các sản phẩm của chúng tôi luôn nổi bật với hoa văn tinh xảo, cân đối, mang nét đặc trưng riêng và đảm bảo sự hoàn hảo”, ông Khoa chia sẻ.
Là thế hệ thứ năm trong gia đình có truyền thống làm nghề chạm bạc, ông Nguyễn Phú Tiếp (47 tuổi, chủ cơ sở Phú Tiếp) tâm sự: “Sinh ra và lớn lên ở làng, ngay từ nhỏ đôi bàn tay tôi đã quen việc, tiếng chạm, đục đã in sâu trong tai. Vì yêu nghề cha ông để lại, tôi luôn gìn giữ và mở một xưởng nhỏ để phát triển nghề, tạo việc làm cho lao động trong làng”.
Học nghề chạm bạc không hề đơn giản, bởi không phải ai cũng đủ tâm huyết và kiên trì để rèn luyện. Tuy nhiên, những người thành thạo đều dành trọn tình yêu cho nghề thủ công tinh xảo này. Theo ông Tiếp, điểm khó nhất của nghề là không có khuôn mẫu cố định; người thợ phải tự mình hình dung và sáng tạo các nét hoa văn, họa tiết trên sản phẩm, và chỉ khi hoàn thiện mới có thể đánh giá được giá trị của tác phẩm.
Nhiều cơ sở đã ứng dụng máy móc vào một số công đoạn, nhưng cơ sở của ông Tiếp vẫn ưu tiên phát triển chạm bạc theo phương thức thủ công truyền thống. “Tinh hoa của làng nghề Đồng Xâm nằm ở những họa tiết, hoa văn được thúc nổi hoàn toàn bằng tay, sử dụng các công cụ thô sơ như dùi, đinh, búa…
Mỗi sản phẩm hoàn thiện mang nét riêng biệt mà máy móc không thể thay thế. Đó chính là ‘hồn cốt’ tạo nên sự khác biệt đặc trưng của chạm bạc Đồng Xâm”, chủ cơ sở Phú Tiếp khẳng định.



Bảo tồn và phát triển làng nghề
Nhiều làng nghề truyền thống đang dần mai một, chủ yếu do sự cạnh tranh khốc liệt từ các sản phẩm công nghiệp giá rẻ. Đồng thời, thế hệ trẻ ngày càng ít quan tâm và tham gia vào nghề truyền thống, một phần bởi thu nhập không còn hấp dẫn so với các công việc trong các doanh nghiệp, nhà máy. Nghề chạm bạc Đồng Xâm cũng không nằm ngoài xu thế này.
Từng trải qua thời kỳ phát triển rực rỡ, làng nghề đã có lúc phải đối mặt với nhiều khó khăn và nguy cơ mai một. Tuy nhiên, nhờ vào tâm huyết và tình yêu nghề bền bỉ của nhiều thế hệ nghệ nhân cùng với sự hỗ trợ tích cực từ chính quyền địa phương, nghề chạm bạc Đồng Xâm đã từng bước được hồi sinh và ngày càng khẳng định vị thế, thương hiệu của mình.
Ông Vũ Xuân Đông – Phó Trưởng phòng Văn hóa – Xã hội xã Trà Giang, cho biết: Với hơn 600 năm hình thành và phát triển, làng nghề chạm bạc Đồng Xâm đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là làng nghề truyền thống vào năm 2010, đồng thời được Hiệp hội Làng nghề Việt Nam trao bằng chứng nhận là một trong 12 làng nghề tiêu biểu toàn quốc.
Sản phẩm chạm bạc Đồng Xâm không chỉ phủ khắp thị trường trong nước mà còn được xuất khẩu ra nước ngoài, trở thành niềm tự hào và động lực to lớn để nhân dân địa phương tiếp tục gìn giữ và phát triển nghề truyền thống của cha ông.
Để bảo tồn và phát triển bền vững làng nghề, thời gian qua, chính quyền xã đã chú trọng xây dựng hành lang pháp lý, quy hoạch quỹ đất, đồng thời tạo điều kiện vay vốn cho các hộ gia đình mở rộng sản xuất và đẩy mạnh quảng bá, giới thiệu sản phẩm.
Hiện nay, nghề chạm bạc đã mở rộng ra các khu vực lân cận, hình thành vùng nghề trải dài gần 6 km với hơn 300 cơ sở sản xuất, tạo việc làm ổn định cho trên 5.000 lao động, với mức thu nhập trung bình từ 6 đến 8 triệu đồng/người/tháng.

Bên cạnh đó, địa phương còn tổ chức nhiều lớp đào tạo nghề, bồi dưỡng lực lượng lao động kế cận, truyền dạy bí quyết làng nghề truyền thống, thu hút hàng nghìn thợ trẻ và đào tạo thợ kim hoàn giỏi phục vụ cho nhiều tỉnh, thành trên cả nước.
“Nhiều năm qua, chính quyền xã đã phối hợp chặt chẽ với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh triển khai mô hình phát triển du lịch làng nghề, kết nối cộng đồng với các tuyến tour du lịch trong tỉnh.
Khi đến Đồng Xâm, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng mà còn có thể lựa chọn những kiệt tác tinh xảo do các nghệ nhân hàng đầu trong làng nghề chế tác từ vàng, bạc. Đây chính là cách thức hiệu quả để quảng bá sản phẩm, đồng thời góp phần khẳng định sức sống bền bỉ của làng nghề chạm bạc Đồng Xâm hơn 600 năm tuổi”, ông Đông chia sẻ.
Để thích ứng với thị trường và ngăn chặn nguy cơ mai một, làng nghề Đồng Xâm đã chủ động đổi mới hướng đi. Bên cạnh các sản phẩm chạm bạc thủ công truyền thống, làng nghề còn mở rộng sang chạm đồng, mạ bạc và tích hợp công nghệ, máy móc vào quá trình sản xuất. Nhờ đó, sản phẩm trở nên đa dạng hơn, từ trang sức, đồ thờ cúng đến vật dụng trang trí nội thất. Hiện nay, làng nghề tạo công ăn việc làm ổn định cho hơn 5.000 lao động và mở rộng ra các khu vực lân cận, khẳng định sức sống bền bỉ của một di sản làng nghề suốt 600 năm qua.