Gặp lại nguyên mẫu 'Gửi em, cô thanh niên xung phong'

13/10/2025 12:30

.t1 { text-align: center; } .t2 { text-align: right; }

Hơn nửa thế kỷ sau, chúng tôi tìm gặp người phụ nữ ấy - nguyên mẫu sống động của hình tượng thơ - để nghe lại câu chuyện tuổi 20 giữa Trường Sơn khói lửa.

Cô gái tuổi 20 giữa lửa bom Đồng Lộc

Gửi em, cô thanh niên xung phong

Có lẽ nào anh lại mê em

Một cô gái không nhìn rõ mặt

Ðại đội thanh niên đi lấp hố bom

Áo em hình như trắng nhất

Người tinh nghịch là anh dễ thân

Bởi vì thế có em đứng gần

Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là “Thạch Nhọn”

Ðêm ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón

Em đóng cọc rào quanh hố bom

Cái miệng em ngoa cho bạn cười giòn

Tiếng Hà Tĩnh nghe buồn cười đáo để

Anh lặng người như trôi trong tiếng ru.

Tranh thủ có ánh sáng đèn dù

Anh vội nhìn em và bạn em khắp lượt

Mọi người cũng tò mò nhìn anh

Rồi bóng tối lại khép vào bóng tối

Em ơi em, hãy nghe anh hỏi

Xong đoạn đường này các em làm đâu

Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu

Cô gái ở Thạch Kim Thạch Nhọn

Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm

Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều.

Anh đã đi rất nhiều, rất nhiều

Những con đường như tình yêu mới mẻ

Ðất rất hồng và người rất trẻ

Nhưng chẳng thấy em, cô gái ở Thạch Nhọn Thạch Kim

Những đội làm đường hành quân

trong đêm

Nào cuốc nào choòng xoong nồi

xủng xoảng

Rực rỡ mặt đất bình minh

Hấp hối chân trời pháo sáng

Ðường trong tim anh in những dấu chân.

Chiếc võng bạc trên đường hành quân

Anh đã buộc nhiều cây xoan cây ổi

Lại đường mới và hàng nghìn cô gái

Ở đâu em tinh nghịch của anh?

Bụi mù trời mùa hanh

Nước trắng khe mùa lũ

Ðêm rộng dài là đêm không ngủ

Em vẫn đi, đường vẫn liền đường

Cạnh giếng nước có bom từ trường

En không rửa ngủ ngày chân lấm

Ngày em phá nhiều bom nổ chậm

Ðêm nằm mơ nói mớ vang nhà

Chuyện kể từ nỗi nhớ sâu xa

Thương em, thương em, thương em

biết mấy...

Dừng tay cuốc khi em ngoảnh lại

Sẽ giật mình đường mới ta xây

Ðã có độ dài hơn cả độ dài

Của đường sá đời xưa để lại

Sẽ ra về bao nhiêu cô gái

Một ngày mai đường sẽ đứng chơ vơ

Ðể cho đời sau còn thấy ngẩn ngơ

Trước những công trình ngoằn nghoèo trên mặt đất.

Ơi em gái chưa một lần rõ mặt

Có lẽ nào anh lại mê em

Từ cái đêm Thạch Nhọn Thạch Kim

Tên em đã thành tên chung anh gọi:

Em là cô thanh niên xung phong.

Phạm Tiến Duật

Một chiều tháng 10, chúng tôi ghé cửa biển Thạch Kim. Bên bờ sóng rì rào, trong một quán nhỏ dựng tạm bằng vài tấm gỗ, một người phụ nữ tóc bạc cặm cụi xếp lại những gói thuốc lá, chai nước lọc - những món hàng giản dị để mưu sinh qua ngày.

Dáng người gầy gò, làn da sạm nắng, đôi bàn tay run run vì tuổi tác, ít ai ngờ rằng bà từng là nguyên mẫu trong một trong những bài thơ nổi tiếng nhất thời chống Mỹ “Gửi em, cô thanh niên xung phong” của nhà thơ Phạm Tiến Duật.

Bà là Lê Thị Nhị, nay đã 79 tuổi. Ngày ấy, bà được gọi bằng cái tên rất riêng - “cô gái Thạch Nhọn” - cái tên đi vào thơ và ký ức của một thế hệ. Người dân nơi đây quen gọi bà một cách thân thương là O Nhị. Bà kể: “Tôi sinh năm 1946, trong gia đình có năm anh chị em, giờ chỉ còn tôi với chị cả, ba người kia đều mất sớm. Năm 1950, bố tôi đi vận tải ở Hải Phòng thì bị địch bắn chết. Từ đó, ba mẹ con phải nương tựa vào nhau”.

Năm 1967, khi chiến tranh bước vào giai đoạn ác liệt, cô gái 20 tuổi Lê Thị Nhị viết đơn tình nguyện gia nhập lực lượng Thanh niên xung phong với khát vọng duy nhất: Đem tuổi xuân hiến dâng cho Tổ quốc. Gia đình, đặc biệt là người mẹ đã mất chồng và nhiều người thân, ra sức can ngăn. Nhưng Nhị quyết chí ra đi. Một đêm cuối tháng Hai, cô lặng lẽ rời nhà, hòa vào dòng thanh niên của xã.

Từ đó, bà gắn bó với Tiểu đội 4, Đại đội 554, Tổng đội 55 TNXP Hà Tĩnh – đơn vị ngày đêm đối mặt với bom đạn trên Quốc lộ 15A, đoạn qua Ngã ba Đồng Lộc. Đây là tuyến huyết mạch chi viện cho miền Nam, hứng chịu trung bình 5 - 7 trận bom mỗi ngày. “Ngày thì rà bom, tối học văn hóa, đêm lại đào đường. Có khi vừa lấp xong hố bom thì máy bay kéo đến. Chúng tôi vẫn cứ cắm tiêu, phá bom, san đường cho xe qua. Sợ thì có, nhưng không ai lùi bước”, bà nhớ lại, giọng trầm nhưng ánh mắt ánh lên niềm tự hào.

Năm 1968, những ngày ác liệt nhất ở Đồng Lộc, đơn vị lập tổ cảm tử phá bom, làm cầu dưới hỏa lực dày đặc. Lê Thị Nhị là một trong những người đầu tiên xung phong. Khi nghe tin, mẹ bà tìm đến đơn vị xin đưa con về. Trước mặt mẹ, cô gái trẻ ôm chặt đôi vai gầy, khẽ nói nhưng dứt khoát: “Nếu con hy sinh, đó cũng là vinh dự của mẹ. Nếu con sống, con sẽ ở bên mẹ suốt đời”. Câu nói giản dị ấy, bà đã giữ trọn cho đến khi mẹ nhắm mắt.

Trong ký ức của bà, những tháng ngày cùng đồng đội trên tuyến lửa vẫn vẹn nguyên. Đội cảm tử 6 người - 3 nam, 3 nữ ngày đêm thay phiên nhau cắm tiêu, lấp đường. “Giặc ném bom ban ngày, đêm thả pháo sáng. Cái chết lúc nào cũng lởn vởn bên cạnh, nhưng tôi với đồng đội khi đó nỏ (không) sợ chi”, bà kể.

Hai lần, bà suýt không thể trở về. Một lần vào tháng 8/1968, khi cùng đồng đội rà bom, quả bom bất ngờ phát nổ, đất đá vùi lấp cả hai. Một lúc sau, họ mới bới đất bò dậy, bàng hoàng vì còn sống. Lần khác, khi vừa rời một quả bom từ trường chưa đầy 15m, nó phát nổ. Bà kịp nằm rạp xuống, thoát chết trong gang tấc nhưng vẫn bị đất đá vùi lấp. May nhờ đồng đội kịp phát hiện và cứu đưa về đơn vị. Những ký ức ấy, đến nay bà vẫn nhớ như in.

Cuộc gặp gỡ chớp nhoáng

Trong muôn vàn ký ức, bà Nhị không quên một buổi tối năm 1968. Khi tiểu đội đang san hố bom, bà mặc chiếc áo xanh pha trắng còn khá mới. Một anh bộ đội đi ngang, giọng Bắc, dừng lại hỏi chuyện. Bà vừa làm vừa đáp bâng quơ: “Em ở Thạch Nhọn”. Cả tiểu đội bật cười, còn anh lính ngơ ngác. Có người giải thích: “Thạch Nhọn là Thạch Kim đấy ạ”. Bà cười tiếp lời: “Kim không nhọn thì răng nựa (sao nữa)!”.

Người lính năm ấy chính là nhà thơ Phạm Tiến Duật. Từ câu nói đùa giản dị, ông viết nên bài thơ “Gửi em, cô thanh niên xung phong”. Một năm sau, bài thơ được phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, khiến cả nước biết đến hình ảnh cô gái “Thạch Nhọn” hóm hỉnh, kiên cường. Nhưng “nàng thơ” lại suýt bị kỷ luật vì “dám trêu cán bộ”.

Bà cười nhớ lại: “Khi nghe thơ trên đài, ông Đào Vũ Nghinh, Đại đội trưởng gọi tôi lên trách: Sao O lừa bộ đội để giờ người ta đọc thơ trên đài? Tôi lo lắm, nói với thủ trưởng, tui sai tui chịu, cho đi chăn tru (trâu) cũng được, chứ đừng bắt về, xấu hổ với mẹ lắm. May ông bảo: Vì Duật là nhà thơ, không phải cán bộ, nên tôi thoát tội”.

O Nhị ở chiến trường đến năm 1972. Năm 1973, bà thi đậu Trường Đại học Thể dục Thể thao nhưng chỉ học một năm rồi về quê chăm sóc mẹ. Đến năm 1999, nhờ sự vận động của Báo Tuổi trẻ và chính quyền, mẹ con bà mới có căn nhà nhỏ. Năm 2002, mẹ bà qua đời. Từ đó, bà sống đơn độc bên cửa biển Cửa Sót, không chồng, không con, chỉ còn ký ức và những vần thơ còn văng vẳng trong đời.

gap-lai-nguyen-mau-gui-em-co-thanh-nien-xung-phong-3.jpg Bà Nhị (bên trái) ôn lại chuyện cũ cùng đồng đội tại buổi gặp mặt cựu TNXP tỉnh Hà Tĩnh (tháng 7/2025).

Cái nắm tay muộn màng

Giờ đây, mỗi ngày từ 4 giờ sáng, bà lại dắt chiếc xe đạp cũ ra cảng, bán vài gói thuốc, chai nước cho ngư dân. Có hôm may thì kiếm được dăm chục nghìn, không thì lại lặng lẽ đạp xe về tay không. “Tuổi xuân thì sống vì Tổ quốc, hết tiếng súng thì sống vì mẹ. Giờ mẹ mất rồi, mình sống đơn độc, lủi thủi một mình. Cô đơn lắm. Chân thì đau nhức, nhưng chưa có tiền đi viện, vì tiền hỗ trợ hàng tháng chỉ đủ chi tiêu thường ngày”, bà nghèn nghẹn.

Điều day dứt lớn nhất là phải đến cuối đời bà mới gặp lại Phạm Tiến Duật. Năm 2007, nghe tin ông bệnh nặng, bà tìm đến bệnh viện. Gặp ông, bà run run thì thầm: “Anh Duật ơi! Tui là cô gái Thạch Nhọn đây…”. Nhận ra giọng nói quen thuộc, nước mắt ông rơi xuống. Ông nắm chặt tay bà, cố nhìn gương mặt người con gái trong đêm “không rõ mặt” mấy chục năm trước.

gap-lai-nguyen-mau-gui-em-co-thanh-nien-xung-phong-2.jpg Bà Nhị bên quán nhỏ tại cảng cá Cửa Sót (Lộc Hà, Hà Tĩnh).

Cái nắm tay ấy, muộn màng nhưng đẹp đến nao lòng. Một duyên kỳ ngộ giữa chiến tranh, khép lại bằng một cuộc gặp cuối cùng. Ít lâu sau, nhà thơ qua đời. Ngày tiễn ông ở Hà Nội, bà lặng lẽ thắp hương, lòng nghẹn ngào nhớ lại những câu thơ và đêm pháo sáng nơi Đồng Lộc.

Hơn nửa thế kỷ trôi qua, “cô gái Thạch Nhọn” năm nào nay chỉ còn là dáng người gầy gò, lưng còng, đôi bàn tay run rẩy. Nhưng ký ức về bà thì không mất đi. Bà đã gửi tuổi xuân nơi chiến trường, gửi ước mơ cho chữ hiếu, và giờ gửi phần đời còn lại trong im lặng bên biển cả.

Có lẽ bà không biết rằng mình đã trở thành một “bài thơ sống” - không chỉ trong ký ức một thế hệ mà trong tâm thức dân tộc. Bởi giữa đời thường, bà chính là chứng nhân cho một thời hào hùng, minh chứng rằng những con người vô danh đã góp phần làm nên lịch sử.

Tuổi trẻ của tôi, cũng như bao người thanh niên xung phong khác, là những ngày đi giữa bom đạn. Sợ thì có, nhưng không bao giờ lùi bước. Sống chết khi đó như chuyện thường, nhưng chúng tôi luôn vững tin vào ngày mai hòa bình. Hiện tại, dù cuộc sống không dễ dàng, tôi vẫn tự hào vì đã góp phần nhỏ bé cho đất nước, để tuổi trẻ không uổng phí. Bà Lê Thị Nhị