Chuyện học xưa & nay: Tổng đốc được ví như Bồ Tát

10/11/2025 12:02

Tiến sĩ Hoàng Kiêm (1870 - 1939), tự Cấn Sơn, hiệu Ngọc Trang, người Hoàng Xá, tổng Quỳ Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, sau là xã Diễn Cát, huyện Diễn Châu (nay là thôn Hà Đông, xã Minh Châu, Nghệ An). Ông không chỉ nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, cương trực, mà còn được nhân dân ghi nhớ bởi tấm lòng nhân ái, thương dân, trọng nghĩa. Câu chuyện cuộc đời và sự nghiệp của ông là minh chứng sống động cho tinh thần sĩ khí, và phẩm chất của một bậc nho thần thời Nguyễn.

Trò hiền gặp thầy giỏi

Theo gia phả họ Hoàng và văn bia “Hoàng tộc tự bi ký”, dòng họ Hoàng của ông vốn là một nhánh di cư từ Giang Hạ (Trung Quốc) sang Đại Việt, nhiều đời khoa bảng, danh vọng dưới triều nhà Lê. Khi cụ tổ Hoàng Khắc Quýnh định cư ở xã Hoàng Xá, vì gia sản giàu có mới lập ra Tế điền (ruộng tế), Kỵ điền (ruộng giỗ chạp), Văn điền (ruộng hội văn), Võ điền (ruộng hội võ) với diện tích khoảng 30 mẫu để con cháu hằng năm lấy đó phàm kế thờ phụng tổ tiên.

Tuy nhiên, đến đời thân phụ ông là cụ Hoàng Ngọc Quý vốn thông minh, trọng đạo nghĩa nhưng khoa trường lận đận, gia cảnh đã sa sút nên sinh sống bằng nghề dạy học. Thân mẫu là bà Lê Thị Tường, mất sớm khi ông mới lên 5 tuổi. Ông là người con thứ 3, gia cảnh vất vả nên từ nhỏ cùng người em gái út thường xuyên được thân phụ đưa đến chỗ dạy học để tiện chăm dưỡng. Mãi sau khi thân phụ ông lập kế thất, gia đình ông mới đỡ vất vả.

Cảnh nghèo và thiếu thốn tình mẫu tử khiến tuổi thơ của Hoàng Kiêm càng thêm gian truân, song cũng rèn luyện cho ông nghị lực và lòng hiếu học. Tư chất thông minh, lại được cha nghiêm khắc dạy dỗ, Hoàng Kiêm sớm nổi tiếng là người học giỏi, lễ phép, ham đọc sách. Giai thoại địa phương kể lại rằng, mỗi ngày ông đều phải lội qua sông Đò Đạu để đến trường, áo quần cuốn cao, sách vở đội trên đầu, bất chấp mưa nắng. Sự khổ luyện ấy đã trở thành biểu tượng cho ý chí cầu học của người Nghệ.

Khi trưởng thành, ông theo học Cử nhân Nguyễn Thức Tự, người làng Đông Chữ, huyện Chân Phúc (sau thuộc Nghi Lộc, Nghệ An) là một bậc thầy nổi tiếng học rộng, đức cao. Khi ấy, thầy Nguyễn Thức Tự mở trường Đông Khê, là một trường có nề nếp, tiếng tăm. Cũng như ở một số trường học trước đây thời các cụ Ngô Thế Vinh ở Nam Định, Nhữ Bá Sĩ ở Thanh Hóa, Nguyễn Thức Tự đã tập hợp các bài phú hay của các học trò thành cuốn “Đông Khê hiên luật phú” để làm kinh nghiệm học tập.

Theo lời của học trò Phan Bội Châu, Nguyễn Thức Tự là thầy giáo không phải chỉ dạy chữ, dạy theo sách (kinh sư), mà là thầy giáo dạy người (nhân sư). Cách thức giảng dạy của ông là làm sao cho học sinh trở thành con người xứng đáng là con người.

tong-doc-duoc-vi-nhu-bo-tat-2.jpg Chân dung Tiến sĩ Hoàng Kiêm (ảnh chụp năm 1939).

Đem bút mực tô điểm non sông

Các nguồn sử liệu cho biết, thầy Nguyễn Thức Tự đã dạy trên 400 học trò, trong đó nổi lên cả một thế hệ nhân tài của đất nước từ cuối thế kỷ 20. Có những học trò đỗ đạt cao, ra làm quan theo đường giáo giới hay chính giới, và đều giữ được phẩm chất của nhà nho, của con người trí thức chân chính, như: Hoàng giáp Đinh Văn Chấp, Hoàng giáp Nguyễn Đức Lý, Tiến sĩ Nguyễn Mai, Phó bảng Vương Đình Trâm, Nguyễn Thúc Đinh, Nguyễn Sinh Sắc, Đặng Nguyên Cẩn…

Có những người không tiến thân bằng con đường quan trường mà dấn thân vào công cuộc cách mạng trong các phong trào Đông Du, Duy Tân, Việt Nam Quang Phục hội: Đặng Thái Thân, Hoàng Trọng Mậu, Phạm Vân Ngôn, Ngô Đức Kế, Phan Bội Châu.

Dưới sự chỉ dạy của thầy Nguyễn Thức Tự, năm 1897, Hoàng Kiêm đỗ Tú tài khoa Thành Thái thứ 9; đến năm 1903 đỗ Cử nhân khoa Quý Mão. Năm Giáp Thìn (1904), ông vào thi Hội, thi Đình tại kinh đô Huế, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, tên xếp thứ ba trong bảng đề danh, sau Đặng Văn Thụy và Trần Quý Cáp, trên Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Sĩ Tạo và Nguyễn Mai.

Ngày vinh quy bái tổ, cả tổng long trọng chuẩn bị đón rước, riêng nhân dân hai làng Ngọc Lâm (tổ quán) và Quảng Hà (sinh quán) góp tiền dựng tặng ông ngôi nhà gỗ ba gian để chúc mừng. Thầy Đông Khê Nguyễn Thức Tự khi ấy đã tặng ông đôi câu đối nổi tiếng: Thí hậu đoạt bào, thiên vị tài hoa trang diện mục/ Môn tiền lập tuyết, nhân tương hàn mặc nhuận giang sơn (Thi đỗ áo bào, trời vì tài hoa điểm trang mày mặt/ Học dầm sương tuyết, người đem bút mực tô điểm non sông).

Sau khi đỗ đạt, Tiến sĩ Hoàng Kiêm được triều đình bổ dụng làm Hàn lâm viện Biên tu - một chức vụ chuyên biên soạn, hiệu định văn bản triều đình. Song ông chưa kịp bắt đầu sự nghiệp thì thân phụ qua đời năm 1906, buộc ông phải cáo quan về cư tang ba năm. Đến năm 1908, ông trở lại quan trường, được bổ nhiệm làm Tri phủ Đức Thọ (Hà Tĩnh), rồi Tri phủ Hà Thanh, Lang trung bộ Hình, Án sát Thanh Hóa, Bố chính Thanh Hóa, và Tuần vũ Hà Tĩnh.

Trên mỗi cương vị, Tiến sĩ Hoàng Kiêm đều nổi tiếng liêm khiết, cẩn trọng và gần dân. Ông xem dân là gốc của quốc gia, luôn đặt việc an sinh, thuế khóa và đời sống người dân lên hàng đầu. Chính vì thế, khi phong trào phản kháng “chống sưu cao thuế nặng” bùng nổ ở Trung Kỳ những năm 1920, ông đã nhiều lần tìm cách dung hòa, giảm bớt gánh nặng cho dân.

Sách “Câu đối xứ Nghệ” từng ghi lại đôi câu đối mà ông dán trước cổng dinh Tuần phủ, như một lời nhắc nhở quan lại đương thời: Bần giả sĩ chi thường, vị bần nhi sĩ/ Phú thị nhân sở dục, vi phú bất nhân (Kẻ sĩ nghèo là thường, vì nghèo nên phải học/ Giàu sang ai chẳng muốn, chớ vì làm giàu mà bất nhân).

tong-doc-duoc-vi-nhu-bo-tat-3.jpg Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm Giáp Thìn (1904) ghi danh Tiến sĩ Hoàng Kiêm - tại Văn Thánh Miếu Huế.

Được dân tôn xưng Bồ Tát

Năm 1927, Tiến sĩ Hoàng Kiêm được triều đình thăng làm Tổng đốc Nam Nghĩa, trông coi hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi. Đây là giai đoạn để lại nhiều dấu ấn sâu đậm nhất trong cuộc đời và sự nghiệp một nhà khoa bảng. Trong bối cảnh nhân dân đói khổ, thiên tai mất mùa, sưu thuế nặng nề, Hoàng Kiêm đã dốc lòng chăm lo cho dân, đệ trình nhiều tờ sớ xin giảm thuế, gia hạn nộp sưu, thậm chí trì hoãn thuế vụ để người dân có thời gian khôi phục mùa màng.

Hành động “vì dân chống lệnh” ấy khiến thực dân Pháp tức giận. Viên công sứ Pháp từng buông lời đe dọa, nhưng Hoàng Kiêm vẫn cứng cỏi, bất hợp tác. Ông nhiều lần đến thăm bạn đồng môn Phan Bội Châu, khi ấy đang bị an trí tại Huế, và thể hiện thái độ tôn kính, đồng cảm với bậc chí sĩ yêu nước.

Nhân dân Quảng Nam ghi nhớ công lao của ông, tặng hai bức hoành phi khắc bốn chữ “Vạn gia sinh Phật” và “Quảng Nam Bồ Tát”. Vua Khải Định cũng ban sắc phong ghi hai chữ “Thanh liêm” để tưởng thưởng nhân cách ấy. Sách “Quan lại trong lịch sử Việt Nam” nhận xét: “Ông làm quan to nhưng rất nghèo, có năm đến Tết mà nhà không có hương hoa cỗ bàn... Ông rất trong sáng, hiền từ, không giống bọn quan lại tham ô, mà thường chú ý đến việc làm lợi cho nhân dân”.

Năm 1930, khắp vùng mất mùa, dân đói khổ nhưng chính quyền Pháp vẫn thúc ép nộp thuế. Trước tình cảnh đó, Tổng đốc Hoàng Kiêm vì thương dân nên ra tay tát tên quan Pháp khi y đang hạnh họe chuyện nộp thuế chậm, rồi sau treo ấn từ quan về trí sĩ. Triều đình thăng ông hàm Hiệp tá Đại học sĩ, tước Vinh Lộc đại phu, thụy Văn Ý, thuộc hàng Tòng nhất phẩm - một sự ghi nhận xứng đáng cho cả đời thanh liêm và tận tụy.

Trở về quê hương Diễn Châu, ông tiếp tục đóng góp cho cộng đồng. Với uy tín và kiến thức của mình, ông vận động nhân dân xây dựng nhiều công trình thủy lợi, cầu cống quan trọng như cống Thủy Quan, cầu Anh Liệt, đập Ba Ra Đô Lương, cùng hệ thống kênh mương tưới tiêu nối ba huyện Diễn – Yên – Quỳnh. Những công trình này giúp cải thiện đáng kể đời sống sản xuất của người dân vùng Bắc Nghệ, nhiều nơi đến nay vẫn còn dấu tích.

tong-doc-duoc-vi-nhu-bo-tat-5.jpg Nhà thờ Tiến sĩ Hoàng Kiêm tại làng Hà Đông, xã Minh Châu, Nghệ An.

Ngoài ra, ông tích cực khuyến học, lập tủ sách tại nhà, dạy con cháu và thanh niên trong vùng học chữ Nho, chữ Quốc ngữ. Trong di chúc để lại, ông viết: “Sẽ làm nhà thờ tại nơi ở. Trước làm phòng đọc sách, sau đó là nhà thờ. Ta rất vui với ý nguyện đó”. Di nguyện ấy đã được con cháu thực hiện: Nhà thờ và tủ sách cộng đồng mang tên Hoàng Kiêm được dựng lên, trở thành nơi sinh hoạt văn hóa – giáo dục của địa phương.

Ngày 23/5/1939 (tức ngày 5 tháng 4 năm Kỷ Sửu), Tiến sĩ Hoàng Kiêm qua đời, hưởng thọ 69 tuổi. Tương truyền, trong giờ khắc ông qua đời, một ngôi sao sáng từ trên cao - thẳng trên ngôi nhà ông ở, sa xuống đất kéo theo một vệt sáng dài đến tận lèn Hai Vai (lưỡng Kiên Sơn). Mộ phần của ông đặt tại đồng cây Đa Đình. Để tỏ lòng kính trọng và ghi nhận công đức của ông, nhân dân địa phương đã lập bài vị phối thờ ông tại đền Hắc Y của làng Ngọc Lâm để hương khói tri ân như một vị Phúc thần.

Hiện nay, mộ và nhà thờ của Tiến sĩ Hoàng Kiêm được đặt tại xóm 7, làng Hà Đông, xã Minh Châu, và đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh, trở thành điểm tri ân và giáo dục truyền thống cho hậu thế. Cuộc đời ông thật xứng với lời ca ngợi: Thanh đức vô song, vạn thế nhân tâm tôn chính trực/ Nghĩa danh bất tử, thiên thu hương hỏa thịnh văn chương.

Là nhà nho hay chữ, ông cũng để lại các trước tác thơ văn. Qua các bài thơ, câu đối, có thể thấy Tiến sĩ Hoàng Kiêm là người có tâm thế ưu thời mẫn thế. Thơ ông giàu lòng trắc ẩn, cảm thương trước cảnh dân nghèo, đất nước bị đô hộ. Nhiều bài thơ viết trong thời kỳ cáo quan thể hiện nỗi đau của kẻ sĩ bất lực trước thời cuộc, nhưng vẫn ẩn chứa niềm tin vào đạo lý và nhân tâm.

Gần trăm năm đã trôi qua, hình ảnh Tiến sĩ Hoàng Kiêm vẫn được hậu thế nhắc nhớ như một tấm gương của người quan thanh liêm, nhà nho nhân nghĩa. Ông là hiện thân của lý tưởng “dĩ dân vi bản” - lấy dân làm gốc, và của tinh thần “trung hiếu, liêm khiết” mà lớp trí thức đầu thế kỷ 20 đã góp phần gìn giữ giữa thời buổi biến động.

Trong tiến trình lịch sử dân tộc, những người như Tiến sĩ Hoàng Kiêm không chỉ là sản phẩm của một thời đại khoa bảng, mà còn là biểu tượng cho nhân cách Việt Nam truyền thống: Trung hậu, nghĩa tình, biết lấy trí tuệ và đạo đức phụng sự đất nước. Từ cậu học trò nghèo bên dòng Đò Đạu đến vị Tổng đốc được dân gian tôn xưng là “Quảng Nam Bồ Tát”, cuộc đời Hoàng Kiêm là minh chứng sinh động cho quan niệm “làm quan thanh liêm là cách báo đền dân tộc cao đẹp nhất”. Trên hết, di sản ông để lại cho hậu thế là tấm gương về lòng thương dân, đức chính trực, tinh thần hiếu học và sự tận tụy suốt đời vì dân, vì nước.