Đó là hai vị Tiến sĩ họ Vũ là Vũ Duy Đoán và Vũ Công Đạo, cùng quê Mộ Trạch, huyện đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là thôn Mộ Trạch, xã Đường An, thành phố Hải Phòng). Hai vị đại khoa sinh cùng thời, hơn kém nhau một tuổi, làm quan đồng triều và có nhiều liên hệ với nhau trong công việc.
Người dám bẻ cổ gà chọi
Gia phả họ Vũ cho biết, Vũ Duy Đoán (1628 – 1684) là con của Hoàng giáp Vũ Bạt Tụy. Theo giai thoại dân gian, tuy là con của một nhà khoa bảng lớn nhưng hồi nhỏ Vũ Duy Đoán rất tối dạ, học cả ngày không được chữ nào. Cũng vì tối dạ mà sinh chản nản, Vũ Duy Đoán không thiết học nữa mà định đổi sang nghề khác.
Một đêm, ông nằm mộng thấy có vị thần cầm dao mổ bụng mình ra, nạo bỏ những chất vẩn đục đi. Hôm sau tỉnh dậy thấy bụng vẫn đau nhưng từ bấy giờ ông như người khác, minh mẫn, học hành tiến bộ, dần trở thành người nổi tiếng về văn chương.
Năm 1664 đời vua Lê Huyền Tông, Vũ Duy Đoán thi Hương đỗ Giải nguyên, rồi thi Hội đỗ Tiến sĩ. Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 2 do Hàn lâm viện Hiệu thảo Nguyễn Nham vâng sắc soạn, có đoạn: “Khoa cử đặt ra cốt để thu hút hiền sĩ, vời đón anh tài. Các bậc đế vương từ xưa không vị nào không mượn dùng phép ấy để kén chọn kẻ sĩ làm công cụ cho nền trị bình…
Bèn vào năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Trị thứ 2 (1664) Hội thí các Cử nhân trong nước, đặc sai các viên Đề điệu, Tri Cống cử và Giám thí chia giữ các việc, lấy được hạng trúng cách là bọn Vũ Duy Đoán 13 người.
Đến tháng 6 vào thi Đình làm bài thi văn sách, Hoàng thượng đích thân xem xét, định thứ tự trên dưới, ban cho Nguyễn Viết Thứ đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Lương Mậu Huân 12 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Nêu tên trên bảng vàng, ban yến Quỳnh Lâm, thứ lớp ban ơn đều theo lệ cũ. Lễ nghi đãi ngộ hết sức long trọng đầy đủ”.
Theo văn bia, tên của Tiến sĩ Vũ Duy Đoán đứng thứ 2 trong hàng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Từ giai thoại “tối dạ, học cả ngày không được một chữ” cho đến khi đỗ Tiến sĩ, công thành danh toại, vinh quy bái tổ… là cả một quá trình dài khổ học cần mẫn đêm ngày, tay không lúc nào rời quyển sách, đầu không khi nào ngưng suy ngẫm, từ đó mà có kiến thức uyên thâm, khiến danh tiếng vang xa.

Vũ Duy Đoán được chúa Trịnh Tạc rất chú ý, ưu đãi vượt bậc nên không lâu sau làm đến chức Thượng thư bộ Công. Tuy vậy, ông luôn giữ sự thẳng thắn cương trực, không có một chút luồn cúi xu nịnh. Ông thường tán thưởng nhân cách của đại thần Trương Cửu Linh người nhà Đường, như một tấm gương cho người làm quan chân chính.
Các nguồn sử liệu cho biết, Tiến sĩ Vũ Duy Đoán từng dâng quyển “Kim giám lục” để khuyên chúa Trịnh nên ngay thẳng để làm tốt phong tục, không nghe gièm pha. Chúa Trịnh Tạc khen hay, khen ông là bầy tôi ngay thẳng.
Thời vua Lê Gia Tông, Vũ Duy Đoán được giao đón tiếp sứ nhà Thanh, dọc đường từ sông Nhị về tới cửa điện, họa thơ với sứ giả hơn 20 bài. Vì ông ứng đáp nhanh, tỏ rõ sự thông hiểu nên sứ thần nhà Thanh rất nể phục.
Sinh thời, ông nổi tiếng cương trực, trăm quan ai ai cũng kính nể. Ông từng can ngăn chúa Trịnh Căn chớ nên say đắm với thú chọi gà. Có sách chép rằng: Bấy giờ, trong cung cấm thường có các cuộc chọi gà. Các vị trung quan thường sai người đi khắp nơi để mua gà chọi hay, đem về hiến chúa. Một hôm, Vũ Duy Đoán bắt gặp, liền quát hỏi: “Gà này từ đâu đem về?”.
Trung quan cứ thực tình mà trả lời. Ông tỏ vẻ giận dữ, mắng: “Khi còn ở ngôi Tiềm Để, chúa chỉ biết có mình ta chớ đâu có biết bọn chúng mày, vậy mà nay chúng mày dám bày trò vui chơi để làm cho chúa bị mê hoặc hay sao”.
Mắng xong, ông liền giằng ngay lấy con gà chọi, bẻ cổ chết tươi. Trung quan vội chạy vào cung tâu bày sự việc nhưng chúa lẳng lặng, không nói gì cả. Từ đấy về sau, thú vui chọi gà ở trong cung cũng chẳng còn nữa.

Được thần báo mộng đỗ đạt
Trái ngược với Vũ Duy Đoán, từ nhỏ Vũ Công Đạo (1629 – 1714) đã nổi tiếng là thông minh, học vấn rộng rãi. Năm 1658, Vũ Công Đạo lên đường đi thi Hương nhưng nửa đường được tin mẹ mất liền quay về quê chịu tang. Sang đầu năm sau (1659) triều đình mở khoa thi Hội nhưng vì có việc nên lại hoãn đến mùa Đông.
Bấy giờ, chúa Trịnh Căn xuống chỉ cho phép những người vắng mặt, đi thi thay nếu có văn chương, học giỏi thì đều tha cho cả để thu dụng nhân tài. Vì thế Vũ Công Đạo được miễn lệ (người chịu tang không được thi) và vào thi Hội. Khoa đó triều đình lấy đỗ 20 người, trong đó có Vũ Công Đạo.
Giai thoại kể rằng, Vũ Công Đạo đi thi nửa đường được tin mẹ mất phải trở về chịu tang. Trong lòng ông rất lo buồn. Trên đường về, đêm đó ông vào ngủ nhờ tại chùa Vô Ngại (nay thuộc thôn Vô Ngại, Đường Hào, Hưng Yên) và mộng thấy có tiếng gọi: “Tiến sĩ đi đâu đấy?”.
Ông vào gặp người giữ cửa và hỏi rằng: “Có quan nào trong ấy?”. Người giữ cửa nói: “Mặc áo vàng ngồi giữa là Ngọc Hoàng thượng đế, mặc áo đỏ và mặc áo xanh ngồi hai bên tả hữu là Nam Tào, Bắc Đẩu đấy!”. Ông liền tiến vào sâu yết kiến và hỏi việc thi cử của mình, bỗng nghe tiếng nói: “Năm nay thi đỗ”.
Bất giác, Vũ Công Đạo giật mình tỉnh giấc, ông nghĩ thầm chưa hết tang, lại vắng mặt không được thi thì còn trông mong gì việc đỗ. Nhưng sau đó triều đình hoãn việc thi cử sang mùa Đông năm sau và chúa Trịnh xuống cho phép những người vắng mặt, đi thi thay nếu có văn chương, học giỏi thì đều tha cho cả. Vì thế Vũ Công Đạo được dự thi và đỗ Tiến sĩ.

Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Kỷ Hợi (1659) do Đông các Đại học sĩ, Thiếu phó Liêm quận công Nguyễn Quý Đức vâng sắc nhuận, miêu tả: “… mùa Xuân tháng 2 năm Kỷ Hợi sai các quan Đề điệu, Tri Cống cử, Giám thí thi Hội các sĩ nhân trong nước, chọn hạng trúng cách được bọn Lê Thức 20 người.
Mùa Hạ tháng 4 vào Điện thí. Ban cho bọn Nguyễn Quốc Trinh 3 người đỗ Tiến sĩ cập đệ, bọn Mai Trọng Hòa 2 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Phạm Duy Chất 15 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Ban áo mũ cân đai để y phục đẹp đẽ, cho dự yến Quỳnh Lâm để tỏ ơn trọng hậu, rồi cho cưỡi ngựa vinh quy về làng, nêu cao lòng sủng ái.
Bấy giờ khanh sĩ làm quan tại triều, ấn thao tua mũ san sát đầu hồi chính điện; có người cầm ấn phù tiết việt đi trấn giữ một phương, nườm nượp răm rắp, trong ngoài gắng gỏi, đều là những người thi đỗ trong khoa này”.
Theo văn bia, Vũ Công Đạo đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, tên đứng thứ 8 trong số 15 Tiến sĩ ở hàng này. Tính ông thuần hậu thật thà nhưng cứng cỏi, đứng đắn và thẳng thắn giống như người đồng hương Vũ Duy Đoán. Làm quan trong triều, Vũ Công Đạo thường có những lời bàn đanh thép và có những bài văn can gián chúa Trịnh về việc chọi gà giống như người bạn của mình đã can gián chúa.
Vũ Công Đạo đi sứ Trung Quốc, khi trở về được thăng chức Đô ngự sử, Nhập thị kinh diên. Ông được người đương thời nhìn nhận là một vị ngự sử chân chính. Ông được cử đi sứ nhà Thanh (1673), khi về được thăng chức Thượng thư bộ Hộ, tước Thọ Lĩnh bá.

Đập đầu vào cột trụ để giữ trật tự quốc gia
Năm 1683, chúa Trịnh Tạc sai Tiến sĩ Vũ Duy Đoán cùng đoàn sứ bộ lên Cao Bằng để giải quyết việc biên giới với nhà Thanh. Khi ấy có một viên hoạn quan mang tước Hán quận công cũng được cử đi. Dù chỉ là một thái giám nhưng được chúa ưu ái nên trong danh sách tên của ông ta viết trên tên Vũ Duy Đoán, có nghĩa trên quyền Thượng thư.
Vũ Duy Đoán rất bất bình, thẳng thắn kháng nghị rằng: “Thần đây lạm giữ chức vị Thượng thư. Xưa nay, thần vẫn tưởng là đã được vương thượng coi trọng, ngờ đầu vương thượng lại cho cả Hán quận công trên quyền thần. Thần không dám phụng mạng”.
Các quan cũng tỏ ý không hài lòng với quyết định của chúa, ngự sử Vũ Công Đạo cũng kháng nghị rằng: “Nếu vương thượng bắt thi hành lệnh này thì thần không dám cầm bút để ghi”. Chúa giận lắm, nói rằng: “Nếu không tuân lệnh thì cứ ở lại đấy”.
Bá quan vì thế ở lại mãi cho đến lúc trời xẩm tối. Chúa bèn sai người ra hối thúc. Vũ Công Đạo biết ý chúa không hề thay đổi, bèn đập đầu vào cột trụ. Vũ Duy Đoán thấy thế, vội kêu to lên rằng: “Chúa đã giết người can ngăn, vậy thần cũng xin nạp lại sắc mệnh”.
Người của chúa thấy vậy, vào tâu. Chúa giận nói: “Hả, trước đã từng giết chết gà chọi của ta, ta đã nén lòng bỏ qua, nay có đâu lại ương ngạnh đến thế. Thử hỏi là ai đã giết người can ngăn mà hắn dám nói thế”.
Nói rồi, chúa liền bãi chức tước của Vũ Công Đạo và Vũ Duy Đoán, đuổi về quê làm dân. Sau đó chúa còn cho người đến thu lại tất cả những thứ đã ban cho các ông, Vũ Duy Đoán đem trả hết, riêng đạo sắc về khoa tự và tấm biển gỗ đề hai chữ “Tiến sĩ” thì ông không chịu nộp.
Viên quan phụng sai cứ đòi mãi, ông bèn nói: “Các đạo sắc kia chúa ban cho tôi, tôi xin hoàn cả. Còn đạo khoa tự và tấm biển này là do tài học của tôi mà có nên không dám nộp”. Viên quan phụng sai đành phải về.
Từ khi thôi làm quan, Vũ Duy Đoán vui thú với cảnh đồng quê, không để ý đến việc chính trị. Ông dành thời gian sáng tác thơ văn, viết sách. Ông có làm bài phú “Phạm Lãi đi chơi Ngũ Hồ”, viết sách chữ Nôm với các tác phẩm: “Nông gia khảo tích”, “Phong cảnh Mộ Trạch”, “Dị văn ký”... được người đời khen ngợi. Trạng nguyên Đặng Công Chất cũng khen văn ông thanh cao, kiến thức rộng rãi, ví “học thức trong bụng ông như nuốt cả gác sách Thiên Lộc, hút gác sách Thạch Cư”.
Cho đến cuối đời, Vũ Duy Đoán vẫn giữ tính cương trực khẳng khái không hề thay đổi. Ông mất năm 64 tuổi.
Còn về phần Vũ Công Đạo, sau khi bị đuổi về thì ít lâu sau chúa Trịnh Căn nghĩ đến sự thẳng thắn của ông nên lại khởi dụng làm Hữu thị lang bộ Hình, Hữu thị lang bộ Lại. Năm 1714 đời Lê Dụ Tông, Vũ Công Đạo qua đời, thọ 86 tuổi.
Tiến sĩ Vũ Công Đạo có nhiều học trò là bậc anh tài, đỗ đạt như: Phạm Quang Trạch ở Đông Ngạc (Hà Nội) đỗ Bảng nhãn, Vũ Thạnh ở Đan Luân đỗ Thám hoa, Nguyễn Danh Dự ở Dương Liễu đỗ Hội nguyên. Còn với Tiến sĩ Vũ Duy Đoán, con của ông là Vũ Duy Khuông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất (1670). Như vậy, gia đình vị đại khoa Vũ Duy Đoán 3 đời đỗ Tiến sĩ: Vũ Bạt Tụy (khoa Giáp Tuất 1634), Vũ Duy Đoán (khoa Giáp Thìn 1664) và Vũ Duy Khuông (khoa Canh Tuất 1670), được người đời xưng tụng là “Tam đại Tiến sĩ”.