Một bài thơ thế sự mà ngay lần đầu đọc đã chiếm trọn cảm tình của độc giả thì hẳn là một chuyện không dễ thường xảy ra trong thi ca, một sự lạ rất đáng trân trọng! Vì lẽ, thơ thế sự thường rất khô khan và kén người đọc, kén từ đề tài, nội dung đến kén cả câu chữ mà nó sử dụng. Nhưng thơ thế sự trong “Thường dân” thì lại khác, phải nói là chất thế sự đã được thi ca hóa mềm mượt đến độ cuốn hút thật sự, khó cưỡng.
Vẻ đẹp đường hoàng
Thường dân
Nguyễn Long
Đông thì chật, ít thì thưa
Chẳng bao giờ thấy dư thừa thường dân
Quanh năm chân đất đầu trần
Tác tao sau những vũ vần bão giông.
Khi làm cây mác, cây chông
Khi thành biển cả, khi không là gì
Thấp cao thôi có làm chi
Ngàn năm cỏ vẫn xanh rì cỏ thôi.
Ăn của đất, uống của trời
Dốc lòng cởi dạ cho người mình tin
Ồn ào mà vẫn lặng im
Mặc ai mua bán nổi chìm thiệt hơn.
Chỉ mong ấm áo no cơm
Chắt chiu dành dụm thảo thơm ngọt lành
Hòa vào trời đất mà xanh
Vô tư mấy kiếp mới thành thường dân.
Bài thơ hấp dẫn độc giả trước tiên là ở cái giọng điệu tự nhiên. Sự khái quát được gom tụ hết sức độc đáo qua lời thơ giàu sức gợi tả:
“Đông thì chật, ít thì thưa
Chả bao giờ thấy dư thừa thường dân
… Khi là cây mác cây chông
Khi là biển cả khi không là gì”.
Mào đầu, chẳng cần phải úp mở gì, cứ tuồn tuột ra như thế mà thật lạ, cuốn người đọc ngay, không thể không đọc cho đến chữ cuối.
Bản chất hình tượng trung tâm “thường dân” được tác giả thâu lại chỉ trong vài dòng thơ, ấy thế mà chân dung nhân vật trữ tình lại như hiển lộ đầy đủ hình hài vóc dáng là bởi chữ “khi” đứng ngay đầu dòng như là liệt kê chọn lọc lại như là bộc lộ: “Khi là cây mác cây chông/ Khi là biển cả khi không là gì”.
Những hình ảnh ẩn dụ liền kề điệp từ “khi” đã bổ sung và diễn giải đầy đủ điều tác giả muốn nói: Có cái dũng mãnh, oanh liệt “cây mác cây chông”, có cái mênh mông, to lớn vô cùng “biển cả”, và có cái bình thường vô danh “không là gì”.
Cái hay ở đây là tác giả sử dụng hình ảnh vừa đủ để cho chúng ta mường tượng ra dáng vóc, vị thế xã hội người dân là vậy, thời nào cũng thế, họ là sức mạnh, họ là nền tảng và họ vĩ đại đến gần như… vô cùng lớn mà cũng vô cùng… nhỏ! Lời thơ dựa vào nhau bẩy lên ý nghĩa, tự nhiên mà chân thành. Mỗi thời kỳ được ẩn trong từng nội dung ý nghĩa ấy.
Thời chiến thì họ - “thường dân” - bật lên thành sức mạnh của một thứ vũ khí chiến đấu sắc ngọt, dũng mãnh chống lại kẻ thù; thời bình thì họ lại luôn chấp nhận ở một vị thế gần như “không là gì”. Giọng thơ thảnh thơi an nhàn như chính thân phận “thường dân” xưa nay vốn dĩ thế. Họ là vậy, khi cần thì bung ra hết mình một cách vô điều kiện. Bản chất ấy đáng kính quý vô cùng!
Bên cạnh đó, một phẩm chất đáng trân trọng khác nữa là sự không tranh giành, không hơn thua “thấp cao thôi có làm chi/ ngàn năm cỏ vẫn xanh rì cỏ thôi”. Khiêm tốn rất mực (xem mình như thân cỏ dại nhưng luôn trường tồn) là cách nhìn cuộc sống luôn hướng đến sự an nhiên tự tại, vĩnh hằng.
Tuy giọng thơ có hơi chùng lại “thấp cao thôi có làm chi” nhưng nhịp thì vẫn chắc thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sức sống trường tồn của lối sống khiêm hạ, bền bỉ “ngàn năm cỏ vẫn xanh rì cỏ thôi”. Chữ “vẫn” đặt đúng chỗ nên tỏa sáng, thể hiện sự tiếp nối kế thừa và luôn duy trì những trạng thái “hài lòng với những gì mình có” như là một nguyên tắc bất di bất dịch.
Quả thật, hình ảnh ẩn dụ (cỏ chỉ người dân thường) tuy có thấp bé thật nhưng không hề hèn hạ, chữ “xanh rì ngàn năm” toát lên điều đó, chả ai và chả có một thế lực nào có thể vùi dập được họ. Họ đứng gần nhau, họ bện chặt vào nhau để duy trì sức sống. Sức sống ấy là muôn đời bất diệt.
Nhịp thơ 3/3 như là điểm nhấn không thể không chú ý: “Đông thì chật/ ít thì thưa”, “Ăn của đất/ uống của trời”. Cái thế cân bằng được tạo bởi nhịp thơ nó gợi ra vẻ đẹp vững chãi, đường hoàng. Một sự gắn kết của thiên nhiên, với thiên nhiên.
Một sự an hòa tự tại. Một sự chấp nhận thường hằng mà có thể chỉ có ở nhân dân lao động “đông thì chật/ ít thì thưa” đã thấy sự tự tin một cách vô tư để thích ứng trong mọi hoàn cảnh. Sự điềm đạm ấy đủ thấy hệ quả kéo theo là đáng trân trọng “chả bao giờ/ thấy dư thừa thường dân”.

Khách quan chân thực
Nhân dân lao động mà nói như thi sĩ Nguyễn Long là “thường dân” - một lực lượng đông đảo trực tiếp làm ra sản phẩm nông nghiệp nuôi sống xã hội - dĩ nhiên họ cũng trực tiếp đón nhận những vất vả trong cuộc mưu sinh “quanh năm chân đất đầu trần/ tác tao sau những vũ vần bão giông”.
Họ được nhìn nhận và đánh giá khá cao trong công cuộc bảo vệ quê hương, đất nước “khi là cây mác cây chông”, “khi là biển cả”. Họ tự nhìn nhận mình trong cuộc sống hòa bình, đời thường “khi không là gì!”. Những cái nhìn lồng ghép, thỏa mãn thông tin nhiều chiều, đã được thi vị hóa, làm cho hình tượng “thường dân” hiện ra khách quan, chân thực và dễ gần, dễ mến hơn.
Và sau nữa, sự hấp dẫn thể hiện tiếp theo là ở chỗ bài thơ đã gần như tóm lược được tất cả những nét tính cách và vẻ đẹp phẩm chất của người dân thường qua một vài hình ảnh rất đỗi quen thuộc: Cứng rắn mạnh mẽ (cây mác cây chông, qua bão giông), hết mình và bao dung độ lượng (dốc lòng cởi dạ), tự nhiên nhi nhiên (ăn của đất, uống của trời), sự chịu đựng kiên gan mà kham nhẫn (ồn ào mà vẫn lặng im), tần tảo và chắt chiu tằn tiện gắn với những ước mơ dung dị đời thường (chân đất đầu trần, chỉ mong ấm áo no cơm, dành dụm thảo thơm)…
Đọc “Thường dân” luôn thấy có một khoảng cách vừa đủ để nhìn người dân thường qua con mắt chiêm nghiệm. Họ là thế, bình thường mà vĩ đại. “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” (Nguyễn Trãi). Sức mạnh ấy là sức mạnh của tầng tầng lớp lớp người. Lịch sử đã chứng minh điều ấy.
Và bài thơ một lần nữa đã nhắc lại, song đọc lên không hề thấy cũ kỹ mòn sáo và khô khan. Cái độc đáo hút người là ở chỗ này. Nghệ thuật tổng hợp không né tránh bất kỳ một khía cạnh nào được chuyển tải qua ngôn ngữ giàu hình tượng và ăm ắp cảm xúc đã như một giọng điệu tâm tình bè bạn thì sao có thể không ngồi yên đó mà lắng nghe cho được?
Ở thi phẩm, chúng tôi còn thấy lấp lánh vẻ đẹp ước mơ bình dị nhưng lại thường trực hàng ngàn năm trong suy nghĩ của nhân dân ta:
“Chỉ mong ấm áo no cơm
Chắt chiu dành dụm thảo thơm ngọt lành”.
Những từ ngữ, hình ảnh “ấm áo, no cơm, ngọt lành” gợi ra một cuộc sống no đủ, bình an, đề huề. Chữ “chỉ” như nhấn mạnh ước mơ ấy là ước mơ như đã ngấm từ bao đời, cho dù có thể đánh đổi bao nhiêu những vất vả, hi sinh nhọc nhằn họ vẫn vui vẻ cam chịu.
Bao dung quá! Độ lượng quá! Một sự hi sinh thầm lặng lớn lao cho cuộc sống sinh tồn và phát triển nên mới có thể nói như thủ thỉ tâm tình, nhẹ nhàng mà sâu sắc “chắt chiu dành dụm thảo thơm ngọt lành”. Lời thơ nhẹ nhàng thanh thoát bay bổng lạ thường mà vẫn rất giản dị nôm na!
Cho nên có thể nói “Thường dân” là một bài thơ thế sự không thể mềm mại và tự nhiên hơn! Nó nói cái điều mà ai cũng thấy, cũng nghĩ nhưng hoặc không dám nói ra hoặc nói ra không được, đây lại nói bằng ngôn ngữ thơ lục bát nữa, thì những tưởng, thật không dễ chút nào!
Giọng điệu bài thơ nhẹ nhàng tự nhiên không hề có chút giễu nhại gì. Lời thơ không hề gò mình nhìn xuống mà lấy lòng, cũng không hề quẫy lên chút gì đó gọi là đòi hỏi cầu xin. Cứ thủng thẳng buông ra những lời thơ bình an nhẹ nhàng. Hoan hỷ hòa vào với tươi xanh vĩnh hằng trời đất:
“Hòa vào trời đất mà xanh
Vô tư mấy kiếp mới thành
thường dân”.
“Thường dân” toát ra vẻ đẹp bình thường nhưng không hề tầm thường, vì bài thơ nói về thường dân nhưng lại không hề “thường thường bậc trung” chút nào. Ẩn trong bài thơ là nhiều điều cha ông ta đã nói trước kia. Bởi thế, thi phẩm đã tích cóp được rất nhiều giá trị vĩnh hằng truyền thống.
Ở đó, có thấy phảng phất sự anh dũng của rất nhiều thời đại oai hùng cộng hưởng hun đúc, lại vừa là nền tảng tạo dựng mà vừa là sức mạnh trực diện vùng lên mạnh mẽ… được thể hiện bằng một chất giọng nôm na dễ hiểu, đơn giản lắm nhưng lại vô cùng sâu sắc và nồng nàn thi tứ:
“Đông thì chật, ít thì thưa
Chả bao giờ thấy dư thừa
thường dân”…
“Khi là cây mác cây chông
Khi là biển cả khi không là gì”…
“Vô tư mấy kiếp mới thành
thường dân”…
Có thể nói, ngôn ngữ trong “Thường dân” là thứ ngôn ngữ thoát ngộ, thoát tục đỉnh điểm của những con người “thường dân” thấp bé nhưng lại vĩ đại vô cùng.
Nếu có chi gờn gợn thì có lẽ cái giọng điệu thoáng qua, vâng chỉ một chút thoáng qua, một chút dỗi hờn như là sự đỏng đảnh thời tiết thường thấy ở những người dân thấp cổ bé họng: “Thấp cao thôi có làm chi/ Cỏ ngàn năm vẫn xanh rì cỏ thôi” và một chút khái quát có chút tí ti lên gân chứng tỏ mang màu sắc khiên cưỡng “Hòa vào trời đất mà xanh/ Vô tư mấy kiếp mới thành thường dân”.
Phải chăng chính vì điều này mà khi bài thơ được đưa vào chấm giải Nhất ở Cuộc thi thơ lục bát năm 2003 của Báo Văn nghệ trẻ (Hội Nhà văn Việt Nam) đã bị những ý kiến dè bỉu trái chiều? Song, với sự tự thân mang sức mạnh khái quát rất cao về cả nội dung lẫn nghệ thuật mà nó đã vượt lên tất cả, chinh phục được ban giám khảo. Âu đó cũng là một lời khẳng định cho tác phẩm nghệ thuật xứng đáng khi đã hội tụ đủ những điều cần thiết cho một tác phẩm thi ca xứng tầm.