Hoạn quan từng được dân thờ sống
Theo sử sách, Nguyễn Mãn (tức Lê Trung Nghĩa) là người làng Tu, thôn Nhuệ, xã An Hoạch, tổng Quảng Chiếu, huyện Đông Sơn, nay là phường Đông Quang, tỉnh Thanh Hóa. Dù sinh ra trong gia cảnh khó khăn nhưng từ nhỏ Nguyễn Mãn đã nổi tiếng vạm vỡ, giỏi võ lược.
Vì nhà nghèo nên ông phải rời khỏi quê để tránh việc nấu chè kho khao làng theo tục lệ. Ông đi đến làng Mía, tỉnh Ninh Bình, được vợ chồng chủ quán cho ở nhờ để đi làm công.
Sau đó ông đi lính, được chọn làm quân cấm vệ, tình nguyện bị hoạn để phục vụ trong cung. Con đường binh nghiệp của ông bắt đầu vào khoảng giữa thế kỷ XVIII, khi ông tham gia đạo quân của chúa Trịnh đánh dẹp cuộc khởi nghĩa ở miền Tây Bắc xứ Thanh.
Với tinh thần trung quân ái quốc và nhiều đóng góp cho triều đình, ông dần thăng tiến đến chức Đô đốc Tổng trấn, được phong tước Quận công và cho đổi họ Nguyễn thành họ Lê (họ vua), từ đó ông mang tên Lê Trung Nghĩa (đôi khi chỉ xưng Mãn Quận công).

Tiếp đó, Lê Trung Nghĩa vâng mệnh nhận chức Trấn thủ (tỉnh trưởng) xứ Kinh Bắc (vùng Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay). Mấy năm sau ông lại được điều về kinh đô thụ chức Chính thủ hiệu Lê Hậu dục kỳ kiêm Quản nhất tựu trung quân, rồi được thăng Đô đốc phủ tá đô đốc đại tư mã. Đến thời chúa Trịnh Khải (tức Trịnh Tông), Lê Trung Nghĩa được bổ chức Trấn thủ xứ Thanh Hoa. Ông từng bỏ tiền mua ruộng đất của 9 làng quanh khu vực để chia cho người dân canh tác
Ngưỡng mộ công đức của Mãn Quận công Lê Trung Nghĩa, quan viên và người dân làng quê ông đã lập dựng đền thờ và tôn ông làm hậu thần. Điều đặc biệt, đền thờ hay còn gọi là Sinh từ được lập dựng ngay khi Mãn Quận công còn sống.

Tháng 11/1786, vua Lê Chiêu Thống và chúa Trịnh Bồng xảy ra xung khắc. Lê Chiêu Thống sai tướng Nguyễn Hữu Chỉnh (trước đây theo Tây Sơn) từ Nghệ An kéo quân ra hộ giá. Chúa Trịnh Bồng cử Trấn thủ Thanh Hoá Lê Trung Nghĩa làm tham lĩnh và Đốc đồng Phan Huy Ích làm đốc thị kéo quân chặn đánh Chỉnh ở địa phận huyện Tĩnh Gia bây giờ nhưng thất bại. Lê Trung Nghĩa bị giết.
Kiến trúc độc đáo bằng đá 300 năm tuổi
Khu lăng mộ được đích thân ông xây dựng dưới thời Lê Trung Hưng, tọa lạc trong cụm Di tích Nghệ thuật và Thắng cảnh núi An Hoạch (hay gọi là núi Nhồi, thuộc phường Đông Quang). Đây là một công trình kiến trúc cổ độc đáo đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích Quốc gia vào năm 1992.
Dù trải qua nhiều biến cố lịch sử, nhưng đến nay bên trong khu lăng mộ vẫn còn giữ gần như nguyên vẹn các pho tượng với những đường nét tinh xảo.

Toàn bộ khu lăng là một công trình kiến trúc bằng đá, bao gồm nhiều tượng đá, linh vật, bia đá được chạm khắc công phu từ đá xanh nổi tiếng của núi Nhồi. Khi Quận công Lê Trung Nghĩa mất, ông được dân làng đưa về chôn cất tại đây và sau này người dân hay gọi là khu lăng mộ Quận Mãn.
Hiện Khu lăng mộ chính nằm trên diện tích khoảng 200m2, gồm nhiều hạng mục kiến trúc bằng đá độc đáo, từ cổng vào là 2 tượng lính canh, bên trái là tượng hình rùa dài gần 1,5m, rộng 1m, cao khoảng 0,5m bằng đá.
Bên trong khu lăng chính (diện tích hơn 50m²) từng có một ngôi đình, nay chỉ còn lại các trụ đá. Từ ngoài vào có 2 con chó đá cao khoảng 1,5m đứng gác. Hai bên bậc thềm chính điện có đôi rồng đá được chạm khắc rất tinh xảo.


Chính giữa là một ngai lớn bằng đá, phía trước là một bàn đá nguyên khối dài gần 1m, rộng 0,5m. Hai bên là hàng tượng đá đứng chầu, mỗi bên có tượng 5 quan văn, quan võ, một đôi ngựa đá và một đôi voi đá đang quỳ.
Ngoài ra, ở khu một còn có 4 tấm bia đá (mỗi bên hai tấm) cao khoảng 2m, rộng 1,2m và dày 15cm. Các bia đá này được khắc chữ Hán cổ, do ông Lê Quý Thuần (con trai nhà bác học Lê Quý Đôn) biên soạn, ghi lại tiểu sử Quận công Mãn, địa giới và diện tích đất của 9 làng từng được ông chu cấp, cũng như các làng được giao phó việc cúng tế.

Với kiến trúc độc đáo di tích Lăng Quận Mãn Lê Trung Nghĩa còn được ví như “bảo tàng” điêu khắc đá ở xứ Thanh. Cụm di tích danh thắng núi Nhồi nói chung, lăng Quận Mãn nói riêng là tổng hòa của di tích kiến trúc nghệ thuật, lịch sử văn hóa.