
Trong báo cáo quý II năm 2022 của Cushman & Wakefield, 17 tỉnh và thành phố, trong đó, TP.HCM là khu vực kinh tế sôi động và điểm đến ưa thích đối với các nhà đầu tư mới muốn gia nhập thị trường Việt Nam. Trải qua hơn 30 năm kể từ thời kỳ mở cửa, nền công nghiệp và sản xuất tại miền Nam Việt Nam tăng trưởng vượt bậc, thể hiện qua các chỉ số kinh tế và sản xuất công nghiệp. GDP tăng trưởng khả quan trong 5 năm qua, đứng đầu là Bình Dương với 6,700 USD/người/năm tính đến Q2 2022.
Theo Cục Hàng hải Việt Nam, trong năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa miền Nam đạt 125 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước. Là trung tâm phát triển công nghiệp lâu đời và đầu tiên, miền Nam tập trung số lượng lớn các ngành nghề truyền thống như cao su và nhựa hoặc các ngành công nghiệp dệt may. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) rót vào ngành sản xuất và bất động sản chiếm 75% tổng vốn cam kết tích lũy, lần lượt 254 tỷ USD và 65 tỷ USD.

Dòng vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh vào công nghiệp tiếp tục thúc đẩy sự phát triển các mô hình sản phẩm đa dạng, phục vụ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới thành lập tại miền Nam. Ghi nhận thức tế cho thấy, thị trường nhà xưởng xây sẵn và nhà kho xây sẵn bùng nổ từ năm 2017 với liên doanh Warburg Pincus và Becamex và đến nay, thị trường này đã đón nhận số lượng đầu tư đáng kể.
Đánh giá vai trò của khu vực phía Nam Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu, bà Trang Bùi – Tổng Giám Đốc, Cushman & Wakefield Việt Nam nhận định: Các tỉnh thành miền Nam có mạng lưới đường bộ đã bao phủ khắp lãnh thổ và đóng vai trò kết nối chính cho mạng lưới giao thông vận tải giữa các vùng công nghiệp, nhất là các cảng hàng không, các biển, cửa khẩu, đầu mối giao thông quan trọng. Chỉ tính riêng các tỉnh Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long có tổng chiều dài đường quốc lộ hơn 3.500km và 2 trục cao tốc TP. Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây dài 51km và TP. Hồ chí Minh – Trung Lương là 62km.
Bà Huỳnh Bửu Trân, Giám Đốc Điều Hành, KCN Việt Nam phát biểu
Đặc biệt, các tuyến đường cao tốc được đầu tư xây dựng trên các trục giao thông xương sống của khu vực, kết nối các trung tâm công nghiệp đến những điểm trung chuyển của miền Nam. Tuy nhiên, một số tuyến đường cao tốc quan trọng có nhu cầu lớn, các tuyến quốc lộ song hành đã quá tải, thường xuyên tắc nghẽn, khiến thời gian vận tải container đến cảng biển chính phải mất hơn 2 giờ đồng hồ. Cùng với đó, khu vực này có khoảng 110 bến cảng trong đó đã hình thành các cảng cửa ngõ kết hợp trung chuyển quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh và Bà Rịa – Vũng Tàu các bến chuyên dùng quy mô lớn gắn liền với các khu công nghiệp, liên hợp luyện kim, lọc hoá dầu, trung tâm nhiệt điện.
Ngoài ra, khu vực còn có hơn 6.500 km sông kênh với 6 tuyến vận tải đường thuỷ đang được khai thác vận tải, vận hành trên hai hệ thống sông chính là hệ thống sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Không chỉ riêng Việt Nam mà các vùng công nghiệp các nước Đông Dương cũng được hưởng lợi, đặc biệt là khu vực Bavet thuộc Campuchia với khoảng cách đến cảng Cát Lái gần hơn tới 90km so với việc vận chuyển đến cảng Sihanoukville của họ.
Trong tám cảng hàng không tại miền Nam, Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất đã có nhà ga hàng hóa chuyên biệt. Còn tại các cảng hàng không còn lại như: Cần Thơ, Phú Quốc, Buôn Ma Thuột, Liên Khương, Rạch Giá, Côn Đảo, Cà Mau đã được triển khai đầu tư hoàn thiện khu xử lý hàng hóa riêng tách biệt dây chuyền vận tải hành khách, nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc đóng, dỡ hàng. “Trong tương lai, khi Cảng hàng không quốc tế Long Thành hoàn thiện và đi vào hoạt động hứa hẹn sẽ thúc đẩy khu vực miền Nam phát triển trở thành trung tâm logistics chuyên dụng hàng không trong nước và khu vực”- bà Trang Bùi nhấn mạnh.
Ở góc độ nhà đầu tư, bà Huỳnh Bửu Trân – Giám đốc Điều hành Công ty cổ phần Tập đoàn Khu công nghiệp Việt Nam – cho biết: Số lượng các doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất gia tăng mạnh mẽ đặc biệt là giai đoạn hậu Covid-19. Tuy nhiên, không ít các nhà đầu tư vẫn còn trì hoãn quyết định đầu tư vì tình trạng thị trường bất ổn trên toàn cầu, hệ thống cơ sở hạ tầng chưa kết nối tại miền Nam, chi phí vận chuyển tăng cao, thủ tục phê duyệt kéo dài hay thiếu nguồn nhân lực tay nghề cao.
Bà Huỳnh Bửu Trân cũng cho rằng, “Sự khỏe mạnh” của một nền kinh tế tỷ lệ thuận với độ hiệu quả của hệ thống chuỗi cung ứng. Chính vì vậy, việc nâng cao độ hiệu quả sẽ giúp các nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ vận tải và hậu cần, các cơ quan quản lý thương mại giảm thiểu những trì hoãn có thể tránh được, từ đó làm tăng sản lượng và giảm chi phí kinh doanh. Do đó, Cần gấp rút phát triển cơ sở hạ tầng chất lượng cao và lực lượng doanh nghiệp cung ứng vừa và nhỏ, để giúp tăng tính cạnh tranh với các vùng kinh tế khác trong nước và trong khu vực.
Nguyễn Diễn