Chiếc nón lá là biểu tượng mộc mạc của văn hóa Việt, làng nón Chuông mang những nét đẹp hoài cổ của một ngôi làng Việt xưa gắn với nghề làm nón lá nổi tiếng lâu đời. Nằm cạnh con sông Đáy, làng Chuông là một ngôi làng cổ còn rất nhiều căn nhà xưa cũ, nơi những người phụ nữ vẫn ngày ngày ngồi đan từng chiếc nón, gìn giữ nghề truyền thống.
Hỏi chuyện nghề làm nón, ai ai trong làng Chuông cũng đều biết, nhưng khi hỏi nghề làm nón ở đây có từ bao giờ thì lại ít ai biết rõ. Theo lời những cụ bô lão trong làng, từ thế kỉ thứ VIII, làng đã bắt đầu sản xuất nón. Thưở đó, làng Chuông có tên gọi là Trang Thì Trung, chuyên làm các loại nón cho hầu hết mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội.
Xưa kia, làng Chuông sản xuất nhiều loại nón, dùng cho nhiều tầng lớp như nón ba tầm cho các cô gái, nón nhô, nón long, nón dấu, nón chóp cho các chàng trai và những người đàn ông sang trọng.
Trong thời kỳ phát triển, làng Chuông là nơi cung cấp nhiều loại nón truyền thống như nón quai thao, nón lá già ghép sống. Trong đó, quai thao sử dụng để người già đội đi chùa chiền. Còn nón lá già ghép sống phục vụ những người phụ nữ làm công việc đồng áng bởi loại nón này rất chắc chắn nên có thể dãi dầu mưa nắng cùng người trên đồng với rất nhiều công dụng khác nhau.
Trong căn nhà nhỏ, bà Phạm Thị Nụ, năm nay đã hơn 70 tuổi, mặc dù mắt cũng đã mờ, tay không còn linh hoạt như xưa, nhưng bà vẫn miệt mài chỉ dạy từng đường kim, mũi khâu cho con cháu. Bà Nụ tâm sự, lên 6, 7 tuổi, bà đã biết khâu nón một cách thành thạo. Nón lá làng Chuông nổi tiếng bởi các đặc tính chắc, khỏe, bền, thanh, đẹp. Để làm nên những chiếc nón xinh xinh, những người thợ làng Chuông đã phải bỏ ra khá nhiều công sức và thời gian.
Chia sẻ về các công đoạn làm nón, bà Nụ nói: "Đầu tiên là chọn lá. Lá lụi được đem về vò trong cát rồi phơi nắng cho đến khi màu xanh của lá chuyển sang màu trắng bạc. Sau đó lá được lót dưới nắm giẻ, dùng lưỡi cày miết nhanh sao cho lá phẳng mà không giòn, không rách. Vòng nón làm bằng cật tre, nứa vót nhỏ và đều khi nối bắt buộc phải tròn và không chắp, không gợn. Nón làng Chuông có 16 lớp vòng giúp nón có độ bền chắc nhưng vẫn mềm mại. Tiếp theo, người thợ xếp từng lá vào vòng nón, một lớp mo tre và một lớp lá nữa rồi khâu. Khâu là một công đoạn rất khó bởi không khéo là rách lá ngay".
Cái tài của người thợ làng Chuông là các múi nối sợi móc khi khâu được dấu kín và khi nhìn vào chiếc nón chỉ thấy đều tăm tắp những mũi khâu… Khi chiếc nón được khâu xong, người thợ hơ bằng hơi diêm sinh để cho màu nón trở nên trắng muốt và giúp nón không mốc.
Những chiếc nón cầu kì hơn sẽ được trang trí vào lòng nón những họa tiết hoa lá bằng giấy sắc màu hoặc chỉ khâu nhiều vòng giăng mắc ở hai điểm đối diện để buộc quai nón…
Để có một chiếc nón hoàn chỉnh, người làm nón phải cẩn thận trong từng công đoạn, kiên nhẫn và khéo léo với từng đường kim, mũi chỉ. Lá nón được phơi khắp rệ đê làng Chuông vào những ngày nắng. Trời càng nắng, lá càng trắng ra, chiếc nón làm ra càng đẹp càng bền nhưng người làng nghề cũng vất vả đổ muôn giọt mồ hôi.
Trăn trở để bảo tồn nón Việt
Nghề đan nón đã truyền qua nhiều thế hệ và là một trong những chiếc nôi sản xuất nón lá nổi tiếng nhất Hà Thành. Tuy nhiên, hiện còn rất ít người theo nghề và những người còn theo nghề đều cố gắng lưu giữ nghề cổ truyền của ông cha để lại.
Trong số đó có nghệ nhân Tạ Thu Hương, người phụ nữ không những đam mê với nghề truyền thống, lưu giữ những giá trị của nón lá làng Chuông trước nguy cơ mai một, mà còn có những sáng tạo độc đáo, đưa chiếc nón làng Chuông đến với nhiều du khách quốc tế và xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới.
Chia sẻ về cái duyên với nghề, chị Hương cho hay, ngày nhỏ, chị chứng kiến cảnh người dân làng đội nón đi bán rồi đội nón về. Mọi người nói với nhau rằng "hôm nay không có tiền đong gạo", chị thấy được nỗi khổ của người dân làng mình.
"Chính vì vậy, sau khi học hết cấp 3, tôi đã đem những chiếc nón làng Chuông đến các công ty xuất nhập khẩu, giới thiệu, gửi mẫu mã và nói với họ, nếu có đơn hàng thì trả cho tôi làm, tôi đầu tư mẫu mã. Từ yêu nghề, thương dân và cũng là tự cứu lấy chính mình, đúng là cũng rất gian nan, vất vả rồi tôi cũng có ký được đơn hàng đầu tiên khi mới 18 tuổi…", chị Hương nhớ lại.
Nhận thấy nhu cầu đa dạng của khách hàng, nghệ nhân Tạ Thu Hương đã sáng tạo ra nhiều mẫu nón lá độc đáo. Chiếc nón của chị không chỉ để sử dụng trong đời sống sinh hoạt thường ngày, mà còn trở thành một tác phẩm nghệ thuật với những bức tranh, họa tiết được vẽ một cách tỉ mỉ, cẩn thận đến từng chi tiết.
Nghệ nhân Tạ Thu Hương cho biết thêm: "Tôi đã làm được những đơn hàng xuất khẩu như thế, không phải nón truyền thống mà nón cải tiến đi, mỗi nước một kiểu, mình đã dám nghĩ, dám làm.
Nghĩ là làm, chị Hương đã thử làm những chiếc nón chùm, nón xòe, nón lâm xung, nón thêu phong cảnh Việt Nam vô cùng độc đáo. Từ làng Chuông, những chiếc nón lá mang tâm hồn Việt đã theo du khách đi khắp nơi trên thế giới.
Trung bình mỗi năm, cơ sở sản xuất của nghệ nhân Tạ Thu Hương xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu, Trung Quốc, Nga…khoảng 20.000-30.000 chiếc nón, với giá cao hơn gấp nhiều lần so với giá nội địa.
Trong những ngày giáp Tết, lượng tiêu thụ nón Chuông tăng hơn các tháng trong năm do du khách trong và ngoài nước đặt nhiều hàng để làm quà tặng, quà biếu và cũng là dịp để phục vụ các lễ, hội…
Hoạt động này không chỉ mang về nguồn thu nhập cao cho gia đình, mà còn tạo việc làm cho hơn 20-30 lao động thường xuyên tại xưởng, cùng các hộ sản xuất lân cận với mức thu nhập trung bình từ 4-6 triệu đồng/người/tháng.
Không những vậy, ngoài việc sản xuất, kinh doanh các mặt hàng nón lá, nghệ nhân Tạ Thu Hương đã không ngừng suy nghĩ, làm sao để nhiều du khách biết đến sản phẩm làng nghề mình. Từ suy nghĩ đó, chị đã liên kết với các tour du lịch đưa khách về thăm làng kết hợp chỉ dẫn khách trải nghiệm quy trình làm nón tại làng nghề, góp phần vào sự phát triển kinh tế của địa phương.
"Tôi mong muốn, Đảng và Nhà nước quan tâm, có cơ chế, chính sách để phát triển Điểm Du lịch làng nghề Nón làng Chuông, tạo không gian cho du khách trong và ngoài nước đến trải nghiệm làng nghề. Từ đó bảo tồn và phát huy làng nghề nón lá, tạo an sinh cho người dân", nghệ nhân Tạ Thu Hương kỳ vọng.
Có thể thấy, trải qua bao thăng trầm của thời gian, mặc dù nghề làm nón không còn hưng thịnh như xưa, người dân làng Chuông vẫn miệt mài khâu từng chiếc nón, người già truyền lại cho lớp trẻ, người lớn dạy cho trẻ nhỏ, cứ thế mà nghề nối nghề, họ vững tin và âm thầm gìn giữ mãi chiếc nón lá vừa là truyền thống, vừa là nét văn hóa không thể để biến mất.
Diệu Anh