Đề xuất chi hơn 116 nghìn tỷ đồng phổ cập giáo dục mầm non 3 đến 5 tuổi

22/05/2025 14:00

Ông Nguyễn Đắc Vinh, theo tờ trình của Chính phủ để triển khai thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi, Nhà nước phải bảo đảm nguồn tài chính và nguồn nhân lực rất lớn.

Sáng 22/5, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội nghe tờ trình và báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi.

Phổ cập giáo dục mầm non rất cấp thiết

Trình bày tờ trình, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn cho biết, hàng năm, có trên 5,1 triệu trẻ mầm non.

Trong đó có: 4.556.771 trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi) được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tại 15.256 trường mầm non và 17.444 cơ sở giáo dục mầm non độc lập; tỉ lệ huy động trẻ em nhà trẻ đạt 34,6%, tỉ lệ huy động trẻ em mẫu giáo đạt 93,6%.

Đề xuất chi hơn 116 nghìn tỷ đồng phổ cập giáo dục mầm non 3 đến 5 tuổi- Ảnh 1.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn.

Tuy nhiên, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cũng chỉ ra giáo dục mầm non vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức lớn như: Còn một số lượng khá lớn trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 4 tuổi (chủ yếu là trẻ em ở vùng khó khăn, trẻ em đối tượng yếu thế) chưa được tiếp cận với giáo dục mầm non, tạo ra sự mất công bằng trong tiếp cận giáo dục. 

Các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục mầm non còn nghèo nàn. Chính sách hiện hành dành cho trẻ em mầm non, giáo viên, cơ sở giáo dục, cơ chế, chính sách đầu tư, xã hội hoá giáo dục còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục mầm non.

"Việc ban hành Nghị quyết của Quốc hội nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và thực hiện mục tiêu "hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo vào năm 2030" trong bối cảnh hiện nay là rất cấp thiết", Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh.

Dự thảo Nghị quyết gồm 6 Điều, tập trung giải quyết các vấn đề như hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi trên phạm vi toàn quốc vào năm 2030.

Việc phổ cập được thực hiện theo lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bảo đảm các điều kiện phổ cập theo quy định.

Huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư phát triển giáo dục mầm non dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết Chính phủ Bảo đảm nguồn lực tài chính thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi. 

Trong đó: Ngân sách Nhà nước bổ sung tăng thêm ngoài 20% tổng chi cho giáo dục, đào tạo theo Luật Giáo dục. Nguồn vốn xã hội hóa giáo dục và các nguồn vốn huy động hợp pháp khác.

Bổ sung chỉ tiêu biên chế giáo viên mầm non

Thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết, Ủy ban tán thành sự cần thiết xây dựng Nghị quyết về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi với những lý do được nêu tại Tờ trình của Chính phủ.

Về nguồn lực thực hiện, ông Nguyễn Đắc Vinh cho biết, Ủy ban cho rằng, để hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi vào năm 2030, cần có những giải pháp đồng bộ về cơ sở hạ tầng, đội ngũ giáo viên và nguồn lực tài chính,... để chính sách đi vào thực tế hiệu quả, khả thi. 

"Theo Tờ trình của Chính phủ, để triển khai thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi, Nhà nước phải bảo đảm nguồn tài chính và nguồn nhân lực rất lớn", ông Vinh nói.

Về đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, tổng dự toán kinh phí để thực hiện phổ cập giáo dục mầm non 3 đến 5 tuổi (giai đoạn 2026-2030) là 116.314,1 tỷ đồng.

Trong đó, tổng kinh phí chi đầu tư xây dựng trường, lớp, bổ sung thiết bị, đồ dùng, đồ chơi bảo đảm điều kiện tối thiểu theo quy định là 91.872,5 tỷ đồng. 

Đề xuất chi hơn 116 nghìn tỷ đồng phổ cập giáo dục mầm non 3 đến 5 tuổi- Ảnh 2.

Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh.

Ông Vinh cho biết, Ủy ban cho rằng, cơ quan chủ trì soạn thảo cần xác định lộ trình theo từng năm học trong giai đoạn 2026-2030, lộ trình này cần được quy định cụ thể trong Đề án để có cơ sở lập kế hoạch chuẩn bị các điều kiện bảo đảm như xây dựng trường, lớp; kinh phí thực hiện xây dựng trường, lớp theo đề án hằng năm,...

Về đội ngũ giáo viên mầm non, theo báo cáo đánh giá tác động dự kiến tổng biên chế còn thiếu đến năm 2030 là 47.949 chỉ tiêu. Số biên chế Bộ Chính trị đã đồng ý bổ sung giai đoạn 2022 - 2026 là 26.522 biên chế/65.980 biên chế giáo viên. Như vậy, số biên chế cần bổ sung giai đoạn 2026-2030 là 21.427 chỉ tiêu.

Tuy nhiên, báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổng nhu cầu giáo viên cần bổ sung là 63.897 giáo viên (trong đó, số giáo viên cần bổ sung để bảo đảm tỉ lệ theo định mức là 47.397 giáo viên; số giáo viên thiếu cần bổ sung cho các trường công lập để thực hiện phổ cập là 16.500 giáo viên). Như vậy, số biên chế cần bổ sung giai đoạn 2026-2030 là 37.375 biên chế. 

"Ủy ban đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo làm rõ các số liệu nêu trên tại 2 báo cáo. Đồng thời, cơ quan chủ trì soạn thảo cần tập trung đánh giá số lượng giáo viên mầm non, khả năng bố trí biên chế; xác định cụ thể số lượng giáo viên mầm non thiếu cần bổ sung hằng năm phù hợp với lộ trình phát triển trường, lớp. Số biên chế giáo viên mầm non cần bổ sung giai đoạn 2026-2030 và đề nghị Chính phủ báo cáo cấp có thẩm quyền", ông Vinh nêu.

Tính toán ngân sách phổ cập giáo dục mầm non từ 3 đến 5 tuổi

Có ý kiến đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung giải pháp đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục để giảm bớt áp lực đầu tư giáo viên và cơ sở vật chất từ ngân sách Nhà nước.

Về kinh phí thực hiện Nghị quyết, Ủy ban Văn hóa và Xã hội đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo, bổ sung đánh giá kỹ lưỡng nguồn kinh phí thực hiện Nghị quyết. 

Đề nghị Chính phủ xem xét bố trí nguồn kinh phí thực hiện Nghị quyết do ngân sách Trung ương hỗ trợ tăng thêm ngoài tổng chi ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục, đào tạo theo quy định của Luật Giáo dục.

Có ý kiến đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung đánh giá kinh phí chi trả lương cho đội ngũ giáo viên mầm non tăng thêm giai đoạn 2026-2030 để có đủ cơ sở cho cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định; rà soát kỹ lưỡng số liệu, đánh giá chính xác hơn trong quá trình Chính phủ xây dựng Đề án tổ chức thực hiện Nghị quyết. 

Nguồn tài chính cần bảo đảm tính khả thi, phù hợp với khả năng cân đối ngân sách Nhà nước; nhất là khả năng cân đối ngân sách của các địa phương có điều kiện khó khăn.