Danh sĩ Đặng Trần Thường: Công thần khai quốc và những nghi án lịch sử

24/11/2025 16:30

Trong đó, Đặng Trần Thường nổi bật là người vừa có công lao trong việc giúp Nguyễn Ánh lập nghiệp, vừa vướng phải những nghi án khó tỏ bày.

Từ danh gia vọng tộc đến phận thầy đồ thời loạn

Đặng Trần Thường (1759 - 1816), người xã Đại An Tràng, huyện Chương Đức, phủ Ứng Thiên (nay là xã Quảng Bị, TP Hà Nội). Theo “Đặng gia phả hệ toàn chính thực lục” và “Đặng gia phả ký tục biên” do tác giả Ngô Thế Long dịch và chú thích, Đặng Trần Thường sinh ra trong một dòng họ có truyền thống công thần lâu đời dưới triều Lê - Trịnh. Tám đời trước trong gia tộc đều là các tướng lĩnh, binh quyền và võ nghệ được coi trọng. Cha ông là Xuyền Thái bá Đặng Thông Mẫn nổi bật về võ nghệ, vì vậy ngay từ nhỏ, ông đã được rèn luyện về võ thuật, chiến lược và kỷ luật.

Sự giáo dục này không chỉ giúp ông rèn luyện thể lực, mà còn hình thành tinh thần dũng cảm, quyết đoán và sự nhạy bén trong các tình huống khó khăn. Những phẩm chất đó sau này trở thành nền tảng quan trọng cho cả sự nghiệp chính trị và quân sự của ông.

Thân mẫu Đặng Trần Thường xuất thân từ gia đình danh giá, là con gái của Tiến sĩ Phạm Quang Dung nổi tiếng uyên bác nên bà thông thạo kinh sử và giỏi thi thư. Bà mong muốn con trai theo nghiệp văn chương, học hành đèn sách để nối nghiệp gia tộc, đồng thời tạo điều kiện cho con phát triển trí tuệ và hiểu biết về lịch sử, chính trị. Như vậy, ngay từ nhỏ, Đặng Trần Thường được giáo dục theo một mô hình kết hợp “võ - văn”, vừa có sức mạnh thể chất, vừa am hiểu văn hóa và kinh sử, sẵn sàng đảm nhận vai trò quan trọng trong thời loạn.

Về gốc gác, dòng họ Đặng của ông ban đầu thuộc dòng họ Trần, nhưng do những biến đổi lịch sử phức tạp và những xáo trộn chính trị, gia tộc phải cải sang họ Đặng trước khi định cư tại thôn Lương Xá (sau thuộc xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ). Trong suốt thời kỳ nhà Lê, dòng họ Đặng lập được nhiều công tích nổi bật, được triều đình trọng dụng, thể hiện uy tín và vị thế cao trong xã hội. Vì thế mà truyền thống này được dân gian lưu truyền bằng câu ca: “Làm quan họ Đặng, được việc lớn đều thành công”, phản ánh sự kính trọng và niềm tự hào về uy danh của dòng họ.

Ngay từ nhỏ, Đặng Trần Thường đã bộc lộ sự thông minh, nhanh nhạy và hiếu động. Ông được cha cho học văn từ năm 9 tuổi, nhưng đồng thời lại thích luyện tập võ thuật và tham gia các trận giả cùng bạn bè. Một giai thoại kể rằng khi còn nhỏ, có lần cậu bé Thường vào nghịch trong một đền thờ thổ địa.

Làng ấy năm đó bỗng nhiên có động, nhờ thầy bói xem. Thầy bói nói rằng, có một người đã vào đuổi thần thổ địa đi nên phải làm lễ mời thần về lại. Hỏi ra, mới biết tên người đã cả gan đuổi thần đi là Đặng Trần Thường. Vì chuyện này, cụ thân sinh trách cứ ông rất nhiều, còn dân làng cứ thì thào với nhau rằng, có lẽ lớn lên Đặng Trần Thường sẽ rất hiển đạt, vì nào có phải bất kỳ ai cũng làm quỷ thần kinh hãi được đâu. Mặc dù, chi tiết này khó kiểm chứng nhưng phản ánh tính cách dũng cảm, bộc trực và không sợ rủi ro từ nhỏ của ông.

Không quá chăm chỉ đèn sách nhưng do sáng dạ nên năm 16 tuổi, Đặng Trần Thường thi Hương trúng cách vào đệ Tam trường. Tuy nhiên, khi chuẩn bị bước vào kỳ thi Tứ trường thì cha ông lâm bệnh nặng nên Đặng Trần Thường đã không đi theo nghiệp lều chõng mà về nhà chăm sóc cha.

danh-si-dang-tran-thuong-1.jpg Ban thờ trong đền thờ họ Ngô - nơi gắn bó với danh sĩ Ngô Thì Nhậm. Ảnh: Trần Hòa

Cha qua đời, hai năm sau mẹ ông cũng mất. Gia cảnh khó khăn buộc ông phải từ bỏ việc học, đi làm thầy đồ và nhờ bạn bè giúp đỡ. Ông từng sáng tác bài thơ xin mượn tiền bạn bè, thể hiện sự hài hước, khéo léo, đồng thời phản ánh tinh thần tự lập và tài năng văn chương sớm hình thành:

“Ngất ngưởng Đồ Thường đã đến đây

Có tiền xin mượn lấy năm chầy

Năm chầy không được ba chầy vậy

Phiếu mẫu đền ân cũng có ngày”.

Công thần triều Nguyễn và ba nghi án lịch sử

Năm 1782, khi 24 tuổi, Đặng Trần Thường mới tới kinh thành Thăng Long làm học trò của vị Tiến sĩ họ Nguyễn, người làng An Vĩ. Ông học rất sáng dạ nên được thầy kỳ vọng sẽ đỗ cao trong kỳ thi năm 1783. Tuy nhiên, giai đoạn đó triều đại vua Lê chúa Trịnh đang dần bước vào suy vi, kỷ cương lỏng lẻo, quan lại đồi bại, sĩ tốt kiêu loạn.

Nhận thấy triều đình không còn khả năng làm điều hữu ích cho quốc gia, Đặng Trần Thường quyết định lập thân bằng võ nghệ, đi khắp nơi kết giao hào kiệt và trí giả, chờ thời gặp minh quân. Ông mong có cơ hội cống hiến tài năng cho đất nước, đồng thời thể hiện lý tưởng về trung quân ái quốc.

Một số nguồn sử liệu cho rằng, sau khi nhà Lê rơi vào tay anh em Nguyễn Huệ, Đặng Trần Thường xin ra làm quan với anh em Tây Sơn nhưng không được tiếp nhận nên khi Nguyễn Ánh khởi binh lập cơ nghiệp, Đặng Trần Thường vào Gia Định, phò tá Nguyễn Ánh và lập nhiều công trạng.

Ông được giao những chức vụ quan trọng: Tán lý, Tổng lý đê chính Bắc Thành, Thượng thư Binh bộ, và giữ nhiều trọng trách quân sự, hành chính tại Bắc Thành và Phú Xuân. Vua Gia Long đánh giá ông là “nhân vật anh kiệt ở đất Bắc Hà”, khẳng định tầm quan trọng của ông trong công cuộc thống nhất và ổn định đất nước.

Sự nghiệp của Đặng Trần Thường thể hiện yếu tố nổi bật “văn võ song toàn”. Ông không chỉ là chiến lược gia, mà còn là nhà quản lý hành chính và một trí thức uyên bác, góp phần định hình bộ máy triều Nguyễn những năm đầu thành lập.

Mặc dù có công lao to lớn, Đặng Trần Thường lại vướng phải những nghi án do bối cảnh chính trị phức tạp. Ông bị triều đình kết tội phong phúc thần cho Hoàng Ngũ Phúc - một tướng lĩnh nhà Trịnh, trước kia đã vào đánh chiếm Phú Xuân và đuổi chúa Nguyễn vào Nam. Thay vì phải hủy bỏ sắc phong Hoàng Ngũ Phúc làm thần của thời chúa Trịnh, Binh bộ Thượng thư Đặng Trần Thường và Tham tri bộ Lễ Nguyễn Gia Cát lại tặng cho chức cao hơn là “Thanh danh văn võ thánh thần đại vương”.

danh-si-dang-tran-thuong-3.jpg Các nguồn gia phả họ Đặng đều cho biết, trước Đặng Trần Thường, gia tộc ông đã 8 đời công thần thời Lê - Trịnh. Ảnh: ITN

Chính sử ghi nhận rằng ông suýt bị chém đầu nhưng sau đó được tha. Gia phả họ Đặng và nghiên cứu lịch sử hiện đại cho thấy đây thực chất chỉ là một lỗi hành chính, bị khai thác bởi mâu thuẫn chính trị và sự nghi ngờ quyền lực, chứ không phải hành vi trái pháp luật.

Nghi án thứ hai là vụ án ẩn lậu thuế đinh điền ở Ao Kinh - Bến Hội năm 1812. Số thuế không nộp là do dân số thưa thớt và số hộ ít, rất khó để xác định hoàn toàn lỗi của Đặng Trần Thường. Tuy nhiên, Tổng trấn Bắc Thành Lê Chất tâu lên triều đình, dẫn đến việc ông bị bắt giam và xử giảo (treo cổ) năm 1816. Đây là minh chứng rõ ràng của một nghi án chính trị, xuất phát từ nghi ngờ lòng trung thành và xung đột phe phái, chứ chưa hẳn từ vi phạm nghiêm trọng.

Gia phả họ Đặng ở Lương Xá chép rằng: “Đến năm Nhâm Thân (1812), ông bị mắc vào vụ Ao Kinh - Bến Hội, đó là hai thôn dân bỏ đi hết. Năm ấy, ông vâng mệnh về kinh, thổ quan không nộp đủ tô thuế cho nhà nước. Triều đình hặc ông vì tội ẩn lậu đinh điền… ông bị tội mà chết”.

Nghi án thứ ba của Đặng Trần Thường liên quan đến cái chết của Ngô Thì Nhậm. Nhiều nguồn sử lẫn truyền miệng cho rằng, Đặng Trần Thường từng đến xin Nhậm tiến cử với Nguyễn Huệ nhưng vì khúm núm nên bị Nhậm đuổi đi. Thường hổ thẹn, vào Nam theo phò Nguyễn Ánh. Khi Gia Long phục triều thì các võ tướng văn quan của Tây Sơn bị xử đánh roi ở Văn Miếu. Chủ trì cuộc phạt là Đặng Trần Thường.

Để rửa hận, Thường kiêu hãnh ra vế đối: “Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai”. Ngô Thì Nhậm đáp: “Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế”. Đặng Trần Thường bắt Ngô Thì Nhậm phải sửa lại “thế đành theo thế”. Nhậm không nói lại, Thường sai người dùng roi tẩm thuốc độc đánh ông.

danh-si-dang-tran-thuong-2.jpg Nhà thờ họ Đặng ở Lương Xá. Ảnh: ITN

Sự thật đằng sau giai thoại mối thù oan nghiệt

Tuy nhiên, rất khó có thể khẳng định Đặng Trần Thường có thực sự cho tẩm độc vào roi dẫn tới cái chết của Ngô Thì Nhậm hay không, và nếu có, mục đích thực sự là gì. Nhiều khả năng những giai thoại ấy được hình thành và lan truyền sau này, khi Đặng Trần Thường bị chính minh chủ của mình xử tội chết, khiến hình ảnh của ông trong dân gian trở nên mờ nhạt, thậm chí bị hiểu sai.

Theo các tư liệu như “Cuộc đời và sự nghiệp của Ngô Thì Nhậm” và “Đặng gia phả ký”, không có cơ sở nào chứng minh Đặng Trần Thường và Ngô Thì Nhậm từng là bạn học hay có tư thù cá nhân. Hai người chênh nhau 14 tuổi, Ngô Thì Nhậm sinh năm 1745, Đặng Trần Thường sinh năm 1759 và không cùng quê quán, mỗi người thuộc một phủ khác nhau.

Trước năm 1802, họ hoạt động trong những hoàn cảnh hoàn toàn tách biệt: Khi Ngô Thì Nhậm làm quan triều Lê rồi theo Tây Sơn, thì Đặng Trần Thường vẫn ở quê dạy học, sau đó tham gia chống Tây Sơn và cuối cùng vào Nam theo Nguyễn Ánh. Do vậy, có thể nói lần đầu và cũng là duy nhất họ gặp nhau là vào thời điểm xảy ra vụ việc ở Văn Miếu.

Vì thế, giả thuyết về mối hiềm khích cá nhân hay “cuộc đối đáp định mệnh” giữa hai người đều thiếu căn cứ. Những câu chuyện như “ai công hầu, ai khanh tướng…” và “thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu…” chỉ là những giai thoại được thêu dệt để tăng tính bi kịch cho lịch sử, không phản ánh sự thật.

Đáng chú ý, năm 2011 tác giả Đặng Văn Lộc đã phát hiện hai sắc phong của vua Tự Đức và vua Khải Định phục hồi danh dự cho Đặng Trần Thường. Trong đó, vua Tự Đức từng nhận xét: “Xét Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường, công rất lớn; sở dĩ có tội là do ít học, không biết lễ phép mà thôi”. Đây là sự ghi nhận muộn màng nhưng cũng thể hiện rõ cách nhìn khách quan hơn của hậu thế về công lao và số phận của ông.

Gia phả họ Đặng Lương Xá chép rằng: “Ông là người thẳng thắn, có điều gì không vừa ý đều nói thẳng nên bị nhiều người ghét”. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Đặng Trần Thường không bị xử tử chỉ vì tội ẩn lậu thuế hay do tính cách cứng cỏi, mà nguyên nhân sâu xa là do bị vua Gia Long nghi ngờ về lòng trung thành.

Đặng Trần Thường sinh trưởng trong một gia tộc tám đời đại công thần nhà Lê - Trịnh, mang trong mình huyết mạch trung nghĩa với triều cũ. Khi theo Nguyễn Ánh, ông tin tưởng đó là con đường khôi phục lại cơ nghiệp nhà Lê. Nhưng khi Gia Long lên ngôi, nhận ra lý tưởng tan vỡ, ông tỏ rõ sự thất vọng. Chính sự bộc trực và tư tưởng trung nghĩa này khiến vua Gia Long cảnh giác và lấy cớ vụ “ẩn lậu thuế Ao Kinh” để kết tội, dẫn tới cái chết của Đặng Trần Thường.

Trong khuôn khổ xã hội phong kiến, quan niệm “vua bảo thần chết, thần phải chết” được xem là lẽ tự nhiên, sinh mệnh của bề tôi hoàn toàn thuộc về vua. Ngay cả những công thần khai quốc, một khi khiến hoàng đế mất lòng tin, cũng khó tránh khỏi bi kịch nghiệt ngã.

Đặng Trần Thường là một nhân vật tiêu biểu trong buổi giao thời cuối Lê đầu Nguyễn - người vừa có tài năng, bản lĩnh, vừa gắn bó với nhiều biến động chính trị lớn của dân tộc. Cuộc đời và số phận của ông phản ánh rõ sự phức tạp của thời cuộc, nơi công lao và sai lầm, trung thành và nghi kỵ đan xen. Việc nhìn nhận lại nhân vật này một cách khách quan, dựa trên tư liệu xác thực, là cần thiết để hiểu đúng về lịch sử và những con người đã góp phần định hình thời đại.