Chỉnh sửa gen: “Mũi nhọn” công nghệ chờ hoàn thiện hành lang pháp lý

18/10/2025 16:02

Dù đã có những bước đi sớm song hành lang pháp lý về công nghệ chỉnh sửa gen tại Việt Nam vẫn cần được xem xét, sửa đổi, bổ sung để cập hoàn thiện cơ chế quản lý và thương mại, phù hợp với xu thế toàn cầu.

Sáng 18/10, Diễn đàn “Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp - Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý” đã được tổ chức nhằm thảo luận xu hướng quốc tế, thành tựu trong nước và giải pháp xây dựng hành lang pháp lý cho công nghệ chỉnh sửa gen - lĩnh vực được xem là động lực mới của nông nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên đổi mới sáng tạo.

Phát biểu tại sự kiện, ông Phùng Đức Tiến - Thứ trưởng Bộ NN&MT nhận định: “Khoa học và công nghệ đang trở thành động lực then chốt thúc đẩy nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu”.

Chỉnh sửa gen: “Mũi nhọn” công nghệ chờ hoàn thiện hành lang pháp lý- Ảnh 1.

Ông Phùng Đức Tiến - Thứ trưởng Bộ NN&MT.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, khoa học công nghệ hiện đóng góp khoảng 30% giá trị gia tăng toàn ngành. Nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nông nghiệp Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn góp phần ổn định nguồn cung cho thế giới. “Năm 2025, ngành nông nghiệp có thể đạt kỷ lục xuất khẩu khoảng 67-70 tỷ USD - một minh chứng cho hiệu quả của đổi mới khoa học công nghệ”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nói.

Trong các lĩnh vực công nghệ, công nghệ sinh học được xem là mũi nhọn với tiềm năng đột phá. Việt Nam đang ứng dụng nhiều hướng nghiên cứu như công nghệ chuyển gen, chỉ thị phân tử (marker), nuôi cấy mô, phôi và tế bào nhằm chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi thích ứng biến đổi khí hậu, nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm.

Tuy nhiên, Thứ trưởng cho rằng: “Dù nguồn lực và chủ trương đã có, việc hoàn thiện khung pháp lý vẫn là điều kiện tiên quyết để khoa học công nghệ phát huy hiệu quả. Chúng ta cần tạo môi trường và động lực để các nhà khoa học yên tâm cống hiến, tránh tình trạng họ trăn trở với nghiên cứu nhưng vẫn lo lắng cho cuộc sống”.

Chia sẻ về kinh nghiệm quản lý sản phẩm Biến đổi Gen (GMO), ông Nguyễn Văn Long - Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ cho biết thế giới hiện áp dụng hai hướng tiếp cận chính trong quản lý sản phẩm chỉnh sửa gen. Thứ nhất là đánh giá rủi ro dựa vào đặc tính sinh học của sản phẩm cuối cùng, không phụ thuộc vào công nghệ tạo ra nó; thứ hai là dựa trên công nghệ tạo ra sản phẩm.

Chỉnh sửa gen: “Mũi nhọn” công nghệ chờ hoàn thiện hành lang pháp lý- Ảnh 2.

Ông Nguyễn Văn Long - Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ.

“Xu hướng toàn cầu về quản lý cây trồng chỉnh sửa gen đang chuyển dịch theo hướng khuyến khích đổi mới, đảm bảo an toàn và minh bạch trong thương mại nông nghiệp. Nhiều quốc gia, đặc biệt ở châu Á, đang hoàn thiện khung pháp lý để tận dụng lợi ích của công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Cùng với đó, nhiều nước áp dụng quan điểm cởi mở, coi công nghệ chỉnh sửa gen là công cụ quan trọng cho nông nghiệp bền vững. Việc đánh giá sản phẩm ngày càng dựa trên đặc tính của cây trồng cuối cùng thay vì quy trình công nghệ tạo ra nó, nhất là với các sản phẩm không chứa DNA ngoại lai”, ông Long thông tin.

Cây trồng biến đổi gen được tạo ra như thế nào?

Tại Việt Nam, đã có nhiều chỉ đạo quan trọng nhằm thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng và quản lý an toàn sinh vật biến đổi gen. Luật Đa dạng sinh học năm 2008 đã đưa ra khái niệm về sinh vật biến đổi gen và quy định khung pháp lý cơ bản cho quản lý GMO. Tuy nhiên, đối với công nghệ chỉnh sửa gen, hệ thống pháp lý hiện vẫn chưa hoàn thiện.

Công tác truyền thông khoa học còn hạn chế khiến xã hội vẫn có tâm lý dè dặt với các sản phẩm biến đổi và chỉnh sửa gen, trong khi mối liên kết giữa nghiên cứu, doanh nghiệp, sản xuất chưa thật sự hiệu quả.

Để tháo gỡ, ông Long cho rằng, Việt Nam đang xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Đa dạng sinh học 2008 để cập nhật khái niệm và quy định về chỉnh sửa gen, đồng thời xây dựng cơ chế quản lý và thương mại phù hợp với xu thế toàn cầu. Việc hoàn thiện khung pháp lý này đòi hỏi thời gian, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, nhà khoa học và doanh nghiệp, cùng cam kết mạnh mẽ từ các nhà hoạch định chính sách.

Chỉnh sửa gen: “Mũi nhọn” công nghệ chờ hoàn thiện hành lang pháp lý- Ảnh 3.

Mô hình sản xuất khảo nghiệm giống bắp biến đổi gen PAC999 super S tại Quảng Nam.

“Chúng tôi sẽ tiếp tục hiện đại hóa hệ thống phòng thí nghiệm và cơ sở dữ liệu gen quốc gia, đồng thời phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao, định hướng các chương trình nghiên cứu trọng điểm gắn với đổi mới sáng tạo. Song song đó, hợp tác quốc tế theo hệ thống, bảo hộ sở hữu trí tuệ, công tác truyền thông và chuyển đổi số sẽ được triển khai mạnh mẽ hơn trong thời gian tới”, ông Long nhấn mạnh.

Theo ông Nguyễn Duy Phương - Trưởng Bộ môn Bệnh học phân tử (Viện Di truyền Nông nghiệp) Việt Nam nên tiếp cận quản lý cây trồng chỉnh sửa gen theo hướng đánh giá sản phẩm cuối cùng thay vì quá chú trọng phương pháp tạo ra. Đồng thời, cần điều chỉnh một số khái niệm trong Luật Đa dạng sinh học, chẳng hạn xác định rõ sinh vật biến đổi gen là sinh vật có cấu trúc di truyền bị thay đổi bằng công nghệ chuyển gen”.

Theo ông Phương, thế giới đang tiến rất nhanh trong lĩnh vực này, từ nghiên cứu, ứng dụng, đăng ký bản quyền đến quy định quản lý và thương mại hóa sản phẩm. Việt Nam có đầy đủ điều kiện để không bị bỏ lại phía sau, nhưng để làm được điều đó, cả công chúng, nhà quản lý và nhà hoạch định chính sách cần hiểu đúng bản chất của công nghệ chỉnh sửa gen, tránh nhầm lẫn với GMO, và có cách tiếp cận linh hoạt, phù hợp với thực tiễn phát triển nông nghiệp của đất nước.