Tinh tế nét chạm khắc Đông Giao

Từng tham gia xây dựng các công trình cho hai triều đại Lê - Nguyễn, những người thợ ở làng mộc Đông Giao đã tạc nên những câu chuyện thú vị về sự khéo tay và óc sáng tạo.

Vào thời nhà Lê, làng mộc Đông Giao, thuộc tổng Mao Điền, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Đông. Làng có ba thôn: Chay, Đông Tiến và Sở. Năm 1948, Đông Giao nhập vào các thôn lân cận hình thành xã Lương Điền, thuộc huyện Cẩm Giàng, Hải Dương (nay là xã Cẩm Giàng, Hải Phòng).

Là một trong những làng nghề mộc truyền thống nổi tiếng nhất nhì Việt Nam, Đông Giao không chỉ lưu giữ những câu chuyện về nghề chạm khắc, mà còn là nơi để những nét đẹp được phô bày trên thớ gỗ.

Hơn ba thế kỷ lưu truyền tinh hoa chạm khắc

Theo các tài liệu địa phương, nghề mộc ở Đông Giao có lịch sử trên 300 năm. Từ thế kỷ 17, ba anh em họ Nguyễn là Nguyễn Văn Cấp, Nguyễn Văn Cảnh và Nguyễn Văn Hiếu di cư đến đây sinh sống và lập nghiệp. Từ thời Lê - Nguyễn, tay nghề thợ mộc Đông Giao đã nổi danh khắp vùng, được mời đi dựng nhà gỗ, làm đồ thờ, chạm khắc các công trình đình, chùa.

Bàn tay tài hoa của họ đã để lại dấu ấn tại nhiều công trình lớn, trong đó có cả Kinh thành Huế - một minh chứng hùng hồn cho tay nghề bậc thầy. Những người thợ khi ấy thường đi theo nhóm, mang theo đục, bào, cưa để chu du khắp nơi, góp phần đưa danh tiếng Đông Giao vượt khỏi phạm vi làng xã.

Bởi vậy mà trong sách “Hải Dương phong vật phúc khảo thích” có câu thơ tôn vinh tay nghề của người thợ Đông Giao, rằng: “Vẩy mũi chàng nên hình long phượng/ Thợ Đông Giao mẫu dạng đâu hơn”.

Theo thần tích, trong số những nghệ nhân giỏi của làng Đông Giao xưa, cụ Vũ Xuân Ngôn từng tham gia xây dựng công trình cho triều Lê Cảnh Hưng và sau này có mặt tại Huế phục vụ triều đình nhà Nguyễn. Đến nay, ở Huế vẫn còn một xóm mang tên Đông Tiến - vốn là tên cũ của một trong ba thôn thuộc Đông Giao, nơi những thợ mộc Đông Giao định cư và tiếp tục truyền nghề.

Đình Đông Giao, khởi dựng từ năm 1738, không chỉ là trung tâm tín ngưỡng, mà còn là nơi lưu giữ dấu ấn của nghề mộc. Tại đây còn lưu bia đá ghi danh người công đức xây dựng đình, cùng nhiều hiện vật chạm khắc tinh xảo như đôi long mã gần bằng ngựa thật, bức cuốn thư, hay khám thờ công phu. Bên trái khám thờ là bàn thờ và tượng thờ cụ tổ nghề Vũ Xuân Ngôn.

Từ xa xưa, thợ Đông Giao chủ yếu chuyên về công đoạn điêu khắc, tạo tác đồ thờ, hương án, cửa võng… Sau khi hoàn thiện phần chạm, sản phẩm thường được chuyển sang các làng khác để sơn son thếp vàng, khảm trai. Sự phân công này tạo nên mối liên kết giữa các làng nghề, đồng thời khẳng định vị thế đặc biệt của Đông Giao trong chuỗi sản xuất đồ gỗ truyền thống miền Bắc.

Lịch sử thăng trầm của đất nước cũng in dấu trên làng nghề. Cách mạng Tháng Tám thành công, tiếp đó là ba mươi năm chiến tranh, khiến nghề chạm khắc bị mai một. Nhiều nghệ nhân buộc phải bỏ nghề, chuyển sang làm ruộng hay đóng bàn ghế thông dụng. Đã có lúc, nghề chạm tưởng như bị lãng quên. Nhưng rồi sau ngày đất nước thống nhất, nhu cầu đồ gỗ mỹ nghệ tăng cao, thợ Đông Giao lại hồi sinh nghề cũ, nhanh chóng bắt nhịp với thị trường.

Đặc biệt từ thập niên 1980 - 1990, phong trào làm tủ chè - loại tủ cổ điển gắn với văn hóa Việt đã giúp nghề chạm khắc phát triển mạnh mẽ. Chỉ trong vòng chưa đầy 10 năm, từ vài nghệ nhân cao tuổi, làng Đông Giao đã có thêm vài chục thợ trẻ, tạo dựng lại thương hiệu làng nghề. Đây chính là giai đoạn đặt nền tảng để Đông Giao bước sang giai đoạn mới.

tinh-te-net-cham-khac-dong-giao-10.jpg Từng nét - điểm và kỹ thuật đục chạm kênh bong được nghệ nhân thực hiện đến mức tinh xảo.

Giữ hồn gỗ Việt, vươn ra thế giới

Nhắc đến Đông Giao, điều đầu tiên người ta nghĩ tới chính là những sản phẩm đồ thờ tinh xảo. Từ xa xưa, người thợ nơi đây đã nổi tiếng với ban thờ, ngai thờ, hoành phi, câu đối, cửa võng…

Các sản phẩm này không chỉ phục vụ nhu cầu tín ngưỡng, mà còn mang giá trị nghệ thuật độc đáo. Đường nét chạm khắc ở Đông Giao thường mềm mại, tinh tế, bố cục hài hòa, vừa thể hiện sự linh thiêng vừa đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ.

Theo Nghệ nhân Ưu tú Vũ Xuân Thép, một sản phẩm hoàn thiện có thể mất hàng tháng, thậm chí hàng năm tùy độ phức tạp. Người thợ phải trải qua nhiều công đoạn: Chọn gỗ, phác thảo mẫu, đục phá thô, chạm tinh, mài nhẵn, rồi mới chuyển sang sơn son thếp vàng.

Nghề này đòi hỏi không chỉ sức khỏe và sự kiên trì, mà còn cả óc thẩm mỹ, khả năng sáng tạo. Một nghệ nhân Đông Giao thường sở hữu đến 40 loại đục khác nhau để tạo nên từng đường nét lớn nhỏ, khắc họa hình rồng, phượng, hoa lá, chữ Hán hay những họa tiết mang tính biểu tượng.

Ngoài đồ thờ, thợ Đông Giao còn nổi tiếng với đồ gia dụng và nội thất: Giường, tủ, bàn ghế, sa lông, tủ chè, tủ văn tiến. Đặc biệt, những bộ tủ chè chạm khắc công phu với hoa văn “tứ linh, tứ quý” từng làm mưa làm gió thị trường miền Bắc những năm 1980. Sản phẩm này không chỉ được coi là đồ dùng sinh hoạt, mà còn là biểu tượng sang trọng, nền nếp của gia đình Việt.

Bước sang thời kỳ kinh tế thị trường, Đông Giao nhanh chóng mở rộng sản xuất các sản phẩm mỹ nghệ, tượng gỗ, đồ trang trí, đồ lưu niệm, phục vụ nhu cầu đa dạng trong nước và xuất khẩu. Người thợ không ngừng sáng tạo mẫu mã mới, kết hợp phong cách truyền thống với hiện đại, từ đó mở rộng thị trường ra các thành phố lớn và cả nước ngoài. Những sản phẩm như gạt tàn, con giống trang trí, phù điêu, tượng nghệ thuật… được thợ Đông Giao thực hiện ở trình độ kỹ thuật cao.

Kỹ thuật của làng nghề không chỉ dừng ở bàn tay khéo léo, mà còn kết hợp cả yếu tố công nghệ. Ngày nay, nhiều máy móc hiện đại được đưa vào hỗ trợ như máy cắt, máy tiện, máy chạm CNC, giúp giảm bớt sức lao động thủ công, tăng năng suất.

Tuy vậy, giá trị cốt lõi của nghề vẫn nằm ở bàn tay nghệ nhân thổi hồn vào từng tác phẩm. Bởi một sản phẩm đẹp không chỉ là chính xác về kỹ thuật, mà còn phải mang linh hồn văn hóa, chứa đựng cái “thần” mà máy móc khó có thể tái hiện.

Điểm đặc sắc nhất của sản phẩm Đông Giao là sự kết tinh của văn hóa và nghệ thuật. Người thợ không chỉ khắc họa hình ảnh rồng, phượng, hoa lá, mà còn gửi gắm vào đó ước vọng, niềm tin, triết lý sống. Nhờ vậy, mỗi sản phẩm đều mang giá trị tinh thần, vừa phục vụ đời sống vừa góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

Những năm đầu Đổi mới, Đông Giao đã trải qua một bước ngoặt lớn. Từ chỗ nghề chạm tưởng như mai một, làng nghề nhanh chóng hồi sinh nhờ nhu cầu xã hội. Sản phẩm không chỉ tiêu thụ ở địa phương, mà còn vươn xa ra Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hóa… và cả miền Trung, miền Nam.

Từ đó, Đông Giao không còn chỉ sản xuất theo đơn đặt hàng nhỏ lẻ mà đã tham gia vào các chuỗi cung ứng, ký kết hợp đồng xuất khẩu. Thị trường nước ngoài cũng mở rộng, đặc biệt là các nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, và dần tiếp cận cả châu Âu.

Sự phát triển này kéo theo sự thay đổi mạnh mẽ trong đời sống làng nghề. Nếu trước đây, thợ thường đi xa, ăn ở tại công trình trong nhiều tháng, thì nay đa số làm việc tại xưởng.

Nhà cửa trong làng ngày càng khang trang, nhiều gia đình có điều kiện cho con em học hành cao hơn. Đông Giao không chỉ còn là làng mộc thông thường, mà còn trở thành điểm đến của nghệ nhân các làng nghề khác, cũng là điểm thường xuyên diễn ra các cuộc triển lãm gỗ mỹ nghệ.

tinh-te-net-cham-khac-dong-giao-5.jpg
tinh-te-net-cham-khac-dong-giao-9.jpg Sản phẩm gỗ mỹ nghệ Đông Giao rất đa dạng và liên tục thay đổi để thích ứng với thị hiếu thẩm mỹ.

Hồn dân tộc trong từng đường chạm

Nghề mộc Đông Giao không chỉ là phương tiện mưu sinh, mà còn xem là một di sản, bởi mỗi tác phẩm chạm khắc là kết tinh trí tuệ, tâm hồn, bản sắc riêng. Dựa vào hình dáng khối gỗ, người thợ sẽ lên ý tưởng, vẽ phác họa, vỡ gỗ, đục, chạm, tỉa… khiến cho khối gỗ ấy trở thành một tác phẩm tinh tế.

Hiện nay, tượng gỗ là một trong những dòng sản phẩm được nhiều người ưa chuộng. Từ tượng trâu, gà, voi, cá cho đến các loại cây, hoa lá, tượng cảnh làng quê, tượng Tam đa… Người thợ sử dụng nhiều loại gỗ quý, hiếm vào chế tác khiến cho sản phẩm không những đẹp mà còn thơm.

Ngoài gỗ ngọc am thông dụng, những người thợ ở Đông Giao còn ưa chuộng gỗ hoàng đàn tuyết. Loại gỗ này thơm, đậm dầu, thấu quang, có thể lên tuyết nên khách hàng săn tìm rất nhiều. Tuy nhiên, vì đây là gỗ quý, lại hầu như đã tuyệt chủng nên người thợ chỉ có thể thu mua các đoạn rễ hoàng đàn để chế tác.

Ngoài ra, thợ Đông Giao cũng sử dụng các loại gỗ quý khác như nu hương, nu sụn gỗ trắc, mun sừng Khánh Hòa, sưa, vương mộc tử đàn… để chế tác thành các tác phẩm đẹp. Với các gỗ quý, chế tác đẹp, có dấu triện và giấy đảm bảo của nghệ nhân, một tác phẩm dù kích cỡ nhỏ nhưng giá không hề rẻ.

Hiện nay, nhờ áp dụng công nghệ bán hàng, thợ Đông Giao có rất nhiều khách hàng tham gia đấu giá trực tiếp trên các nền tảng mạng xã hội. Có những tác phẩm được trả giá lên tới vài trăm triệu đồng, thậm chí có những sản phẩm tinh tế được trả giá lên tới hàng tỷ đồng.

Để đảm bảo chất lượng sản phẩm, từ khâu chọn gỗ, người thợ Đông Giao đã phải chọn lựa kỹ càng, ngay cả xi hay sơn dùng cho sản phẩm cũng phải chọn loại tốt nhất. Nhờ vậy, ngoài việc tránh các ảnh hưởng nứt, ngót thì các đường chi tiết, các kỹ thuật đụng chạm kênh bong hay đục nhát mới nổi được các đường vân của thớ gỗ, giúp cho sản phẩm trở nên nổi bật và bền chắc.

Trong những năm gần đây, nhiều chương trình hỗ trợ làng nghề được triển khai theo hướng xây dựng thương hiệu, tham gia hội chợ trong và ngoài nước. Làng Đông Giao cũng được định hướng phát triển gắn với du lịch trải nghiệm. Du khách đến đây không chỉ tham quan đình, chùa, di tích lịch sử, mà còn trực tiếp trải nghiệm quy trình làm mộc, tự tay cầm đục chạm trên gỗ. Đây được coi là hướng đi bền vững, vừa tạo sinh kế vừa quảng bá văn hóa.

Theo các nghệ nhân Đông Giao, tương lai của làng nghề nằm ở sự cân bằng, làm sao vừa giữ được tinh hoa chạm khắc truyền thống, vừa đổi mới để phù hợp với thị hiếu khách hàng hiện đại. Những sản phẩm xuất khẩu cần tinh xảo, mẫu mã đa dạng nhưng vẫn phải mang dấu ấn văn hóa Việt. Đây chính là giá trị cốt lõi giúp Đông Giao khác biệt, không hòa lẫn với tác phẩm của các làng nghề khác.

Hơn 300 năm qua, làng mộc Đông Giao đã chứng minh sức sống bền bỉ. Từ chỗ mai một, nghề đã phục hưng rồi vươn ra thế giới. Giờ đây, trước làn gió hội nhập, Đông Giao tiếp tục khẳng định bản lĩnh dám đổi mới, dám sáng tạo, nhưng không quên cội nguồn. Đó cũng chính là khát vọng vươn xa của một làng nghề từng được các vua chúa ưa chuộng.

Theo các nghệ nhân làng Đông Giao, các mẫu mã sản phẩm gỗ thường chỉ thịnh hành trong thời gian ngắn nên luôn phải tìm tòi, sáng tạo để bắt kịp nhu cầu thị trường. Nếu trước đây, sản phẩm chủ yếu là đồ gia dụng thì nay lại ưa chuộng tượng và hình con giống trang trí, tranh chạm hoa lá, chim muông. Nghề điêu khắc gỗ phần lớn dựa vào bàn tay thủ công nên ngoài năng khiếu, người thợ phải trải qua đào tạo bài bản hoặc nhiều năm rèn nghề mới có thể tạo ra những sản phẩm tinh xảo.

Link nội dung: https://saigonmoi24.com/tinh-te-net-cham-khac-dong-giao-a154938.html