Du Lâm: Nổi danh đất học Kinh Bắc xưa

Trên dải đất ven sông Đuống, thuộc xã Đông Anh (Hà Nội), làng Du Lâm từ lâu đã được nhắc tới như một vùng quê giàu truyền thống văn hiến. Tư liệu lịch sử và truyền thuyết dân gian đều cho rằng, Du Lâm - Mai Lâm là nơi phát tích của Hoàng hậu Phạm Thị Ngà - mẹ vua Lý Công Uẩn.

Vùng đất này không chỉ được coi là “chốn tổ” ngoại của vương triều nhà Lý mà còn là không gian văn hóa giàu truyền thống, nơi lưu giữ những dấu tích, giai thoại về các nhà khoa bảng.

Đất học của vùng Kinh Bắc xưa

Không chỉ là quê ngoại của vua Lý Công Uẩn, từ bao đời nay, Du Lâm còn là mảnh đất sản sinh nhiều bậc hiền tài, danh sĩ, những người đỗ đạt trong khoa cử và cả các trí thức hiện đại có nhiều cống hiến cho đất nước. Trải qua bao biến thiên lịch sử, làng vẫn giữ nguyên cốt cách của một vùng quê hiếu học, nơi chữ nghĩa, đạo lý và khát vọng vươn lên bằng tri thức luôn được coi trọng.

chay-mai-mach-ngam-chu-nghia-lang-nanh-1.jpg Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Tân Mùi (1691) ghi danh đại khoa Trần Danh Đống.

Tên gọi Du Lâm vốn đã gắn liền với vùng Đông Ngàn - Kinh Bắc xưa, vùng đất nổi tiếng “địa linh nhân kiệt”. Từ thế kỷ XVII trở đi, tên tuổi các bậc danh sĩ Du Lâm đã xuất hiện trên chính trường và văn đàn, để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử dân tộc. Cũng bởi vậy, khi nhắc đến Du Lâm, người ta thường gọi thêm mỹ từ “đất học” như một sự khẳng định và tôn vinh truyền thống hiếu học của vùng quê này.

Theo tư liệu nghiên cứu của PGS.TS Bùi Xuân Đính (Viện Dân tộc học) cùng nhiều thư tịch cổ, trước thế kỷ XIX, vùng đất xã Mai Lâm xưa được chia thành nhiều thôn xã nhỏ như Du Lâm, Hoa Lâm (còn gọi là Danh Lâm), Lộc Hà, Mai Hiên… cùng thuộc tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn (Bắc Ninh).

Riêng Du Lâm khi đó bao gồm ba thôn: Du Nội, Du Ngoại và Du Bi. Qua nhiều lần thay đổi địa giới hành chính, đến năm 1961, xã Mai Lâm được thành lập và nhập về huyện Đông Anh, Hà Nội. Như nhiều làng quê Kinh Bắc, Du Lâm mang trong mình không gian văn hóa đặc trưng với đình, chùa, giếng nước, sân đình, bến sông… tất cả tạo nên một cấu trúc làng cổ truyền thống, lưu giữ bản sắc qua nhiều thế hệ.

Đình làng từ lâu là nơi hội tụ các sinh hoạt cộng đồng, nơi diễn ra lễ hội mùa xuân, tế lễ, rước kiệu, gắn kết đời sống tinh thần của người dân. Ở Du Lâm, đình làng thờ ba vị thần: Phật Kim (tức Lý Chiêu Hoàng) - vị vua cuối cùng của triều Lý; Trần Cảnh (tức Trần Thái Tông) - vị vua đầu tiên của triều Trần; và “Trần triều trung quân Đốc khánh đại vương” Đức Thái tử Hoài Đức vương - người từng theo Trần Hưng Đạo đánh giặc Nguyên - Mông, lập nhiều chiến công.

Để nói Du Lâm là “đất học”, trước hết phải nhắc đến truyền thống khoa bảng. Trong các thế kỷ XVIII - XIX, làng đã sản sinh nhiều nho sĩ uyên thâm, đỗ đạt cao, bước vào hàng ngũ quan lại triều đình và trở thành những trí thức lớn của dân tộc. Song, điều làm nên bản sắc hiếu học của Du Lâm không chỉ nằm ở vài tên tuổi nổi danh mà ở chính nếp sống của cả cộng đồng.

Mỗi dòng họ, mỗi gia đình đều coi việc học là con đường tiến thân, là cách đổi thay vận mệnh. Ngay cả trong những giai đoạn binh đao loạn lạc hay khi đất nước trải qua biến động, người Du Lâm vẫn giữ trọn niềm tin vào chữ nghĩa, gửi gắm con em tiếp tục theo đuổi việc học hành.

Tinh thần hiếu học ấy còn gắn liền với phong tục thờ Khổng Tử và các bậc tiên hiền tại đình làng. Ngày xưa, những buổi bình văn, lớp học chữ Hán mở ngay tại nhà các nho sinh trở thành “trường học cộng đồng” của dân làng. Từ đó, lớp lớp thế hệ tiếp nối, hun đúc nên một truyền thống học hành bền bỉ, lan tỏa và trường tồn đến hôm nay.

du-lam-noi-danh-dat-hoc-kinh-bac-xua-2.jpg Thạch trụ ở miếu thờ bà Phạm Thị Ngà - mẹ vua Lý Công Uẩn.

Dòng họ khoa bảng

Nghiên cứu của PGS.TS Bùi Xuân Đính cho thấy, Du Lâm xưa vốn nổi tiếng với truyền thống hiếu học và khoa bảng. Trong đó, làng Du Bi từng có Trần Danh Đống đỗ Tiến sĩ năm 1691. Theo văn bia khoa thi Tân Mùi (1691) do Cẩn sự lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Dương Bật Trạc vâng sắc soạn, Trần Danh Đống sinh năm 1656 (một số tài liệu ghi ông tên Trần Văn Lương), quê xã Hoa Lâm, huyện Đông Ngàn. Ông làm quan đến chức Lại khoa Cấp sự trung, để lại tiếng thơm trong sử sách.

Làng Du Nội cũng nổi bật với ba người đỗ đại khoa: Nguyễn Công Hoàn, Nguyễn Tư Giản và Nguyễn Kham. Trong đó, Nguyễn Công Hoàn đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Tân Sửu (1721). Văn bia đề danh Tiến sĩ của khoa thi này còn ghi rõ:

du-lam-noi-danh-dat-hoc-kinh-bac-xua-4.jpg Chân dung Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản. Ảnh: Tư liệu gia đình

“Đề sách vấn hỏi về đạo trị nước. Sáng hôm sau, quan đọc quyển, nâng quyển tiến đọc. Hoàng thượng đích thân xem xét, định thứ bậc cao thấp. Khi loa truyền xướng tên, Bộ Lễ rước bảng vàng treo trước cửa nhà Thái học. Người xem chen vai nối gót, áo mũ đầy đường. Ai nấy đều nói từ hồi Trung hưng tới nay, khoa mục được người, thì khoa này là thịnh. Mùa xuân năm sau, ân điển được ban hành, ban áo mũ phẩm phục để vẻ vang, cho dự yến Quỳnh, thưởng hoa bạc. Hoàng thượng tỏ lòng ưu ái ban bạc ròng, hậu đãi để dựng nhà cửa chốn che chở. Theo thứ bậc mà định tước vị, ân điển chất chồng”.

Đáng chú ý, bia Tiến sĩ khoa Tân Sửu (1721) là tấm bia duy nhất ngoài việc ghi quê quán còn ghi cả địa chỉ nhập tịch. Văn bia cho biết rõ: Nguyễn Công Hoàn, người xã Du Lâm, huyện Đông Ngàn, là nho sinh trúng thức. Đây là minh chứng khẳng định vị thế khoa bảng của vùng đất hiếu học Du Lâm trong lịch sử.

Đặc biệt, dòng họ Nguyễn ở Du Lâm vốn có gốc từ Hoàng giáp Nguyễn Thực (đỗ năm 1595) quê làng Đóm (Vân Điềm, xã Vân Hà, cùng huyện Đông Anh ngày trước) chuyển cư về. Từ nền tảng ấy, năm thế hệ kế tiếp đều nối nghiệp cha ông trong học hành, khoa cử, tạo nên một truyền thống rực rỡ.

Người đầu tiên là Nguyễn Án. Sinh ra trong gia đình khoa bảng nhưng gặp cảnh sa sút và thời cuộc cuối Lê đầy biến loạn, con đường học hành của ông dang dở. Ban đầu, Nguyễn Án ở nhà dạy học. Đến năm Gia Long thứ tư (1805), ông được triệu ra làm Tri huyện Phù Dung (Hưng Yên) nhưng chẳng bao lâu đã cáo quan về ẩn dật ở quê.

Hai năm sau, vào năm Gia Long thứ sáu (1807), khi triều Nguyễn mở khoa thi Hương đầu tiên ở trấn Kinh Bắc, Nguyễn Án đi thi, đỗ Cống sinh (Cử nhân) và được bổ nhiệm làm Tri huyện Tiên Minh (Hải Phòng). Không chỉ là một nho sĩ, Nguyễn Án còn để lại dấu ấn trong văn học với tác phẩm “Tang thương ngẫu lục” (soạn cùng Phạm Đình Hổ), phản ánh sinh động đời sống văn hoá - xã hội Việt Nam buổi giao thời ba triều đại Lê - Trịnh - Tây Sơn.

Nguyễn Án cùng Phạm Đình Hổ và nữ sĩ Hồ Xuân Hương được hậu thế xưng tụng là “Tam tài tử”. Con đường học vấn của ông còn được nối dài bởi hai người con: Nguyễn Tống Siêu và Nguyễn Tri Hoàn, cùng đỗ Hương cống năm 1813 - trở thành thế hệ thứ hai thành đạt của dòng họ.

Đến thế hệ thứ ba, họ Nguyễn ở Du Lâm thêm phần rạng rỡ với ba người con trai của Nguyễn Tri Hoàn: Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Ý và Nguyễn Năng Ái. Chính họ là những gương mặt tiêu biểu, góp phần đưa truyền thống khoa bảng của Du Lâm lên một tầm cao mới.

Chảy mãi mạch nguồn chữ nghĩa

Trong số những nhà khoa bảng của làng Du Lâm, nổi bật nhất là Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890) - vị quan trải gần 40 năm phụng sự triều Nguyễn, từng giữ nhiều chức vụ trọng yếu dưới 7 đời vua.

Ngay từ thuở nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, ham học chữ. Mồ côi cha mẹ sớm (5 tuổi mất mẹ, 11 tuổi mất cha), Nguyễn Tư Giản phải nương nhờ ông bà ngoại bên ngoài Cửa Bắc thành Hà Nội, gần hồ Trúc Bạch.

Thuở ban đầu, ông theo học anh cả là Nguyễn Đức Hiến - người đỗ Giải nguyên, làm Đốc học. Sau đó, ông tiếp tục được rèn giũa dưới sự chỉ dạy của ông nghè Vũ Tông Phan ở thôn Tự Tháp. Năm 19 tuổi, ông bước vào khoa thi nhưng không thành, ba năm sau mới đỗ Cử nhân tại trường Hà Nội, rồi năm kế tiếp giành học vị Tiến sĩ đệ nhị giáp (Hoàng giáp) khoa Giáp Thìn (1844) dưới triều Thiệu Trị.

Vinh quy bái tổ xong, Nguyễn Tư Giản vào Huế nhận chức Tu soạn Viện Hàn lâm, được giao biên tập bộ Thiệu Trị văn quy và được vua cho đổi tên từ Văn Phú thành Định Giản. Ông nổi danh với tài trị thủy, từng dâng bản “Phương lược trị thủy Nhị Hà” gồm 10 điểm trình bày cụ thể, được vua Tự Đức chuyển xuống các bộ liên quan bàn thảo thi hành.

Trong thời gian làm Tham biện quân vụ Hải - Yên, dưới quyền Tổng thống quân vụ Trương Quốc Dụng, có lần quân nổi dậy kéo đến uy hiếp huyện Cẩm Giàng và tỉnh Hải Dương. Vì sự việc này, ông bị đình thần kết tội bất lực và nhà vua chấp thuận cho bãi chức.

Sau khi bị bãi chức, Nguyễn Tư Giản lui về dạy học ở làng Đôn Thư khoảng một năm, rồi chuyển ra Hà Nội dạy tại phố Hàng Bồ thêm hai năm. Từ đây, ông lại được triệu vào Huế, giữ chức Tu soạn Viện Hàn lâm, sau thăng Thị độc học sĩ tại lầu Kinh Diên.

Năm Đinh Mão (1867), ông được phong hàm Hồng lô tự khanh. Một năm sau, tháng 6 năm Mậu Thìn (1868), Nguyễn Tư Giản được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh. Trong chuyến đi, ông không chỉ hoàn thành trọng trách ngoại giao mà còn học hỏi nhiều kiến thức mới.

Trở về nước, cùng với các trí thức đương thời như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Bùi Viện, ông dâng sớ lên vua Tự Đức, đề xuất chương trình canh tân tự cường: mở rộng bang giao với phương Tây, đưa học sinh ra nước ngoài học kỹ nghệ mới… Tiếc rằng những kiến nghị ấy không được chấp thuận.

Không chỉ nổi danh là bậc hiền tài, Nguyễn Tư Giản còn truyền được nếp học cho nhiều thế hệ sau. Đời thứ tư của dòng họ Nguyễn Du Lâm có bốn người con của ông đỗ đạt: Nguyễn Kham (Tiến sĩ năm 1871), Nguyễn Cơ, Nguyễn Tấn Cảnh, Nguyễn Tốn Khải (lần lượt đỗ Cử nhân các năm 1876, 1886, 1900). Nguyễn Cẩn - con trai Nguyễn Năng Ái - cũng đỗ Cử nhân năm 1879. Sang đời thứ năm, Nguyễn Doãn Thạc (con trai Nguyễn Cơ) tiếp nối truyền thống, đỗ Cử nhân năm 1897.

du-lam-noi-danh-dat-hoc-kinh-bac-xua-1.jpg Chậu tắm bằng đá được cho là hiện vật tắm cho Lý Công Uẩn khi còn bé.

Du Lâm không chỉ được biết đến với những bậc hiền tài khoa bảng, mà còn nổi tiếng bởi nếp sống văn hóa làng đậm đà truyền thống. Hằng năm, vào tháng Ba âm lịch, lễ hội làng được tổ chức long trọng với nghi thức rước nước từ dòng sông, rước kiệu quanh làng, tế lễ ở đình. Tiếng trống, tiếng chiêng rộn rã hòa cùng dòng người nô nức, tạo nên bầu không khí hội làng tưng bừng, nơi cộng đồng thêm gắn kết và cũng là dịp để tưởng nhớ công đức tổ tiên, tiền nhân.

Các trò chơi dân gian được duy trì, góp phần làm lễ hội thêm sinh động, đồng thời trở thành môi trường giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, giúp họ hiểu sâu hơn về cội nguồn.

Đình, chùa, miếu mạo ở Du Lâm từng lưu giữ nhiều hoành phi, câu đối ca ngợi sự hiếu học, khuyến khích con em rèn chí. Không ít gia đình trong làng vẫn giữ được những bức đại tự quý như “Hiếu học”, “Trung hiếu”, “Gia phong” - những giá trị tinh thần đã ăn sâu vào tâm thức cộng đồng.

Ngày nay, Du Lâm thuộc xã Đông Anh mới - một vùng đất đang chịu tác động mạnh mẽ của đô thị hóa. Dẫu vậy, truyền thống của vùng đất học lâu đời vẫn được trân trọng và phát huy. Các thôn làng đều duy trì phong trào khuyến học, lập quỹ khuyến tài, tổ chức lễ tuyên dương học sinh giỏi hằng năm. Không ít gia đình nơi đây có hai, ba thế hệ cùng theo nghề giáo, y bác sĩ, kỹ sư - minh chứng sống động cho câu nói “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”.

Danh xưng “đất học Du Lâm” không phải là ngẫu nhiên, mà được hun đúc từ hàng trăm năm qua, từ những thế hệ trọng chữ nghĩa, từ dấu ấn của các bậc khoa bảng, danh sĩ. Truyền thống ấy vẫn đang tiếp nối trong bối cảnh hiện đại, khi lớp trẻ Du Lâm liên tục đạt thành tích, khẳng định vị thế tri thức của quê hương.

Trong dòng chảy lịch sử Hà Nội, Du Lâm chính là một viên gạch góp phần dựng xây nền văn hiến bằng sức mạnh văn hóa và truyền thống hiếu học. Giữ gìn và phát huy tinh hoa của vùng đất học này cũng là trách nhiệm chung trong việc bảo tồn bản sắc văn hiến nghìn năm của Thăng Long - Hà Nội.

Không chỉ có những vị đỗ đại khoa, dòng họ Nguyễn Du Lâm còn sản sinh nhiều người đỗ Tú tài, tạo nên một truyền thống khoa bảng hiếm có ở Bắc Bộ thời Nguyễn. Bước sang thời cận - hiện đại, mạch nguồn chữ nghĩa ấy vẫn không hề gián đoạn. Nổi bật trong số đó là Nguyễn Triệu Luật (1903 - 1946) - nhà văn với nhiều tiểu thuyết lịch sử giá trị như: Bà Chúa Chè, Loạn Kiêu binh, Ngược đường Trường Thi, Chúa Trịnh Khải, Thiếp chàng đôi ngả… Trong thế kỷ XX, làng Du Lâm còn sản sinh nhiều trí thức, giáo viên, cán bộ cách mạng. Họ chính là những người tiếp nối truyền thống hiếu học, mang tri thức để phụng sự đất nước trong các giai đoạn kháng chiến và kiến thiết.

Link nội dung: https://saigonmoi24.com/du-lam-noi-danh-dat-hoc-kinh-bac-xua-a153963.html