Nền móng sức mạnh mềm trong kỷ nguyên mới

Văn hóa trở thành sức mạnh chiến lược

Bộ VH,TT&DL vừa ban hành Quyết định 3399/QĐ-BVHTTDL, phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035 (giai đoạn I: 2025-2030), là dấu mốc chiến lược thể hiện tầm nhìn mới hướng tới xây dựng nền văn hóa, phát huy sức mạnh mềm của Việt Nam trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.

Chương trình đặt ra 9 nhóm mục tiêu, bao quát từ việc hoàn thiện hệ giá trị văn hóa, con người, gia đình Việt Nam đến phát triển hạ tầng, bảo tồn di sản, phát triển công nghiệp văn hóa, chuyển đổi số, giáo dục nghệ thuật và hội nhập quốc tế.

Các con số cụ thể như phấn đấu 7% GDP từ công nghiệp văn hóa, tu bổ 95% di tích quốc gia đặc biệt, 100% thiết chế văn hóa cấp tỉnh hoàn thiện… không chỉ là chỉ tiêu hành chính, mà còn phản ánh khát vọng định vị văn hóa như một động lực phát triển bền vững.

Đáng chú ý, phạm vi triển khai không chỉ ở trong nước mà còn mở rộng đến các quốc gia có cộng đồng người Việt và mối quan hệ văn hóa sâu sắc. Điều này khẳng định vai trò ngoại giao văn hóa trong việc lan tỏa giá trị Việt. Trong đó, việc tổ chức ít nhất 5 sự kiện văn hóa, nghệ thuật quốc tế mỗi năm có sự tham gia chính thức của Việt Nam được xem là bước đi chủ động, đưa văn hóa trở thành cầu nối, thay vì chỉ là sản phẩm thụ hưởng.

Điểm nhấn của chương trình là chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa. Đây là lĩnh vực được kỳ vọng trở thành động lực tăng trưởng mới của nền kinh tế tri thức. Theo tính toán, tổng nguồn lực đầu tư giai đoạn đầu có thể vượt 100.000 tỷ đồng, tập trung vào 12 ngành công nghiệp văn hóa chủ đạo: điện ảnh, âm nhạc, thời trang, quảng cáo, thiết kế, trò chơi điện tử, xuất bản, nghệ thuật biểu diễn…

Tuy nhiên giới chuyên gia cho rằng, đầu tư thế nào để đem lại hiệu quả là câu hỏi cốt lõi. Bởi chỉ khi đầu tư đúng trọng tâm, tạo được hệ sinh thái sáng tạo thực chất thì nguồn lực này mới trở thành chất xúc tác cho tăng trưởng bền vững.

Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn mới, văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần mà còn là tài sản chiến lược. Một quốc gia có bản sắc sẽ có sức cạnh tranh trên trường quốc tế, nhất là khi giá trị sản phẩm, dịch vụ ngày càng gắn với yếu tố cảm xúc, thẩm mỹ và câu chuyện thương hiệu.

Để hiện thực hóa tầm nhìn ấy, điều cần thiết là đổi mới tư duy quản lý. Văn hóa không thể phát triển nếu còn bị nhìn nhận như lĩnh vực phụ trợ. Chính vì vậy, chương trình mục tiêu quốc gia không chỉ hướng đến việc giữ gìn mà còn phát triển văn hóa, từ bảo tồn di sản đến khuyến khích sáng tạo.

nen-mong-suc-manh-mem-trong-ky-nguyen-moi-3.jpg Đưa giáo dục nghệ thuật và di sản vào trường học sẽ hình thành nền tảng thẩm mỹ và ý thức văn hóa cho thế hệ trẻ.

Kiến tạo hệ sinh thái sáng tạo

Theo phân tích của giới chuyên gia, một hướng đi quan trọng khác trong việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia là phát triển nguồn nhân lực văn hóa chất lượng cao. Không thể có nền công nghiệp văn hóa mạnh nếu thiếu đội ngũ nghệ sĩ, nhà quản lý, nhà sản xuất có tri thức toàn cầu và bản lĩnh văn hóa Việt.

Chương trình đặt mục tiêu 90% văn nghệ sĩ, cán bộ văn hóa được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, là chỉ dấu quan trọng cho thấy sự đầu tư vào con người được đặt ở trung tâm. Đồng thời, việc đưa giáo dục nghệ thuật và di sản vào hệ thống giáo dục quốc dân sẽ tạo nền tảng thẩm mỹ và nhận thức văn hóa vững chắc cho thế hệ trẻ.

Trong lĩnh vực di sản, việc đặt mục tiêu tu bổ gần 2.500 di tích quốc gia và toàn bộ di tích đặc biệt là bước tiến thể hiện sự nhất quán trong việc bảo tồn để phát triển. Nhưng bảo tồn không chỉ dừng ở trùng tu, điều quan trọng hơn là hồi sinh giá trị tinh thần, đưa di sản trở lại đời sống đương đại. Đó có thể là các mô hình du lịch văn hóa, sáng tạo nghệ thuật từ chất liệu truyền thống, hay những dự án chuyển đổi số di sản.

Chuyển đổi số là một trụ cột xuyên suốt của chương trình. Điều này không chỉ giúp tiết kiệm nguồn lực, mà còn mở ra không gian sáng tạo mới giữa nghệ sĩ và công chúng. Việc kết hợp công nghệ, trí tuệ nhân tạo, thực tế ảo vào điện ảnh, sân khấu, triển lãm hay bảo tàng sẽ góp phần định hình nền văn hóa số Việt Nam vừa hiện đại, vừa đậm đà bản sắc.

Để chương trình thực sự tạo chuyển biến, giới chuyên gia lưu ý cần tránh tình trạng dàn trải, phong trào. Việt Nam nên lựa chọn một số lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh và tiềm năng thị trường cao, như: điện ảnh, du lịch văn hóa, thiết kế sáng tạo, ẩm thực truyền thống… để đầu tư chiều sâu, tạo hiệu ứng lan tỏa. Đồng thời, cần gắn phát triển văn hóa với quy hoạch đô thị, giáo dục, môi trường và công nghệ - tức đặt văn hóa trong cấu trúc tổng thể.

Một điểm then chốt khác là đo lường hiệu quả. Văn hóa vốn khó định lượng, nhưng nếu không có hệ thống chỉ số cụ thể, chương trình có thể rơi vào hình thức. Cần có bộ chỉ tiêu đánh giá định kỳ, như tỉ lệ người dân tham gia hoạt động văn hóa, doanh thu ngành sáng tạo, mức độ hài lòng của công chúng. Việc công khai, minh bạch dựa trên dữ liệu giúp chính sách văn hóa trở nên khoa học, hiệu quả và có trách nhiệm.

Theo nhà nghiên cứu Ngô Hương Giang, nhiều quốc gia đã phát triển công nghiệp văn hóa thành ngành kinh tế chính. Vương quốc Anh xác định sáng tạo là một trong 13 ngành chiến lược. Hàn Quốc biến “làn sóng Hallyu” thành sức mạnh quốc gia, thu hơn 14 tỷ USD từ xuất khẩu văn hóa (2024). Trung Quốc đầu tư vào trò chơi, công nghệ số, điện ảnh - doanh thu phòng vé nhiều năm vượt Mỹ. Ấn Độ có Bollywood đóng góp hơn 15 tỷ USD mỗi năm. Những thành công đó cho thấy đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho một ngành kinh tế sáng tạo, sinh lời và lan tỏa sức mạnh mềm.

Link nội dung: https://saigonmoi24.com/nen-mong-suc-manh-mem-trong-ky-nguyen-moi-a153718.html