Nhận xét này có thể coi là nét chạm khắc tương đối sát đúng về đồng nghiệp của tôi: Anh dáng cao gầy, bước đi như chạy, thân trên luôn nhao về phía trước.
Cuối năm 1982, gia đình Phạm Ngọc Quang tá túc trong căn nhà nhỏ phố Hàn Thuyên nay thuộc phường Hạc Thành; có người còn thẳng thớm luôn, ngôi nhà cũng như điện thoại 3 thập kỷ không đổi số sim như Phạm Ngọc Quang thì đích thực anh thuộc loại hợp kim kháng ngự được mọi sự ăn mòn!?. Cuộc sống không ngừng chuyển động nhưng người đồng nghiệp của tôi là vậy và luôn như vậy. Dạo ấy, tôi cùng tổ chuyên tự nhiên với anh; là tổ trưởng nhưng anh và các tổ viên ít gặp nhau, bởi thì giờ với mỗi người là vô cùng quý giá, ai nấy tự lo việc của mình. Mà cũng chỉ chuyện dạy, chuyện học thì cần gì phải hội họp nhiều; ngoài việc rèn cặp học trò chúng tôi còn phải lo đọc sách, tài liệu khoa học để cập nhật tri thức mới. Với công việc, giáo viên trường chuyên như chúng tôi tự ví mình như anh thợ cày tất bật thâm canh, tối về lòng nhẹ nhõm như nhà nông sau buổi làm đồng.
Nhà giáo Phạm Ngọc Quang tuổi Canh Dần (sinh 4/11/1950) trong một gia đình gia thế nhất nhì hàng tổng về sự học cũng như của cải ruộng vườn. Làng Quan Bằng quê anh thuộc xã Cẩm Vân (huyện Cẩm Thủy cũ). Bố anh là cụ Phạm Đình Sách, sinh 1925 đậu Tú tài tại trường Thăng Long (Hà Nội). Cụ từng được nghe thỉnh giảng giờ thầy Võ Nguyên Giáp khi thầy còn dạy tại trường. Là người phong vận, quần tây áo sơ mi, thăm thú một ai đó thì cụ chơi mũ phớt, cụ Sách đi theo cách mạng xuất phát từ nhận thức của người có học không chút tâm lý hùa theo đám đông. Vậy nên, ngay sau buổi đầu chính quyền cách mạng cụ đã được giao trọng trách Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến huyện Cẩm Thủy. Mẹ anh là cụ Phạm Thị Thia chỉ vừa thạo mặt con chữ để đọc được sách báo. Khác với nhiều bạn cùng lứa, thầy dạy vỡ lòng cho cậu bé Quang lại chính là người bố của mình. Cụ Sách không dạy như hướng dẫn của sách giáo khoa mà dùng phấn, hết phấn thì lấy gạch non viết 24 chữ cái lên hè nhà, bắt con thuộc mặt chữ rồi sau đó cho học cách ghép nguyên âm với phụ âm, ví dụ nguyên âm b (bê-bờ) thì ghép: ba, bă, bâ, be, bê, bi, bo, bô, bơ, bu, bư. Lối học đi tắt đón đầu của người bố thật hiệu quả, sau vài tháng cậu trò nhỏ đã không qua lớp Vỡ lòng mà đậu thẳng vào lớp Một. Lúc đầu, lớp 1A của Quang đặt trong đình làng. Lực học của cậu bé nhỏ con nhất lớp chỉ xếp thứ 25 nhưng các năm sau trội hẳn lên, thành học sinh giỏi của trường cấp 1 và cấp 2 xã Cẩm Vân, từng đoạt giải Nhì môn Văn lớp 7 toàn tỉnh và dự thi học sinh giỏi toàn miền Bắc, năm 1964.
Lên học cấp 3 Cẩm Thủy, thiếu niên Quang phải đi trường huyện, trọ học cách nhà 20 cây số. Con đường đất đỏ đến trường hoa sim, hoa mua giăng tím nhiều chỗ, che khuất cả lối đi. Có những hôm trời mưa đường trơn trượt, bùn dính, mẹ quàng lên vai con trai cái ruột vải căng đét khoai sắn gạo. Một tay xách túi đựng sách vở, một tay Quang giữ chặt đoạn trúc làm gậy chống. Ấy vậy mà Chủ nhật về Quang vẫn không chịu ngồi yên. Sông Mã sau đận gầm lên khúc độc hành ở núi rừng Tây Bắc về đến vùng Màu Bãi thì vẫn có thừa sự hung dữ. Kinh nhất là chuyện Quang kiếm củi mùa bão lụt. Có sức vóc lại quen sông nước nên không khó để Quang bơi ngang sông. Hai chân cậu kẹp đoạn luồng làm phao bơi còn đôi tay thành mái chèo đè lên ngọn sóng. Những thân cây gãy đổ bị nước cuốn là chiến lợi phẩm của thư sinh trường huyện mùa nước lũ.
Học xong cấp 3, tháng 9/1967, Phạm Ngọc Quang vào khoa Toán Đại học Sư phạm Vinh, với 3 năm đèn sách, ngày hai bữa gặm sắn gạc nai nhai mì mạch luộc, anh là sinh viên xuất sắc nhất của khóa 1967 - 1970. Rời trường Vinh, anh được điều về dạy Toán tại cấp 3 Quảng Xương 1. Tháng 7/1971 Ty Giáo dục điều động anh về Trường Sư phạm 10+3, tiền thân của Đại học Hồng Đức bây giờ.
Nhưng chiến tranh chưa kết thúc, đầu 1972 Mỹ mở rộng đánh phá dữ dội miền Bắc. Ngày 20/5 thầy giáo Phạm Ngọc Quang rời bục giảng thành chiến sĩ trinh sát của Sư đoàn 320 B, tham gia mặt trận Quảng Trị nơi bom cày đạn xéo, được ví như cối xay thịt người của hai bên chiến tuyến. Tiềm năng khoa học của Phạm Ngọc Quang không thể ẩn mãi. Sau 2 tháng ở chốt, cấp trên đưa anh vào danh sách học Đại học quân sự ở nước ngoài để phục vụ lâu dài trong quân đội. Cảm kích trước sự quan tâm của các thủ trưởng, nhưng nguyện vọng của anh lúc ấy là trở lại với nghiệp cầm phấn, nơi anh được sống và làm việc cùng lớp lớp học trò. Và bất ngờ lại xảy đến như một định mệnh. Tháng 3/1975, Phạm Ngọc Quang thuộc Quân đoàn 1 cấp tốc hành quân vào miền Đông Nam Bộ để tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Thật ý nghĩa với đời lính của anh là trưa 1/5/1975 đã có một Phạm Ngọc Quang trong hàng ngũ các chiến sĩ giải phóng quân làm nhiệm vụ quân cảnh bảo vệ Sài Gòn. Sự bình yên vừa trở lại với nơi được gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông thì những chàng lính chiến lại náo nức trở về với đất Bắc quê hương. Hành trang của anh lính giải phóng lúc đó ngoài tư trang còn thêm nhiều thứ như búp bê, radio hai băng, có anh còn thêm cái khung xe đạp buộc chéo sau ba lô. Riêng thầy giáo - chiến sĩ Phạm Ngọc Quang chiến lợi phẩm lại là cuốn “Tự điển Anh Việt” dày 1.742 trang - giáo khoa thư thuộc hàng quý hiếm ở miền Bắc lúc này - cùng “Bộ sách luyện thi Tú tài môn Toán” chịu ảnh hưởng lớn của giáo dục Âu - Mỹ.
Cuối năm 1975, Trung sĩ, đảng viên trẻ Phạm Ngọc Quang được phép trở lại Trường Sư phạm 10+3, anh lên lớp với bộ quân phục còn khét lẹt mùi thuốc súng. Đầu tháng 9/1976 một quyết định có tính bước ngoặt, anh được Ty Giáo dục điều về dạy lớp chuyên Toán khi đó đặt ở Trường Cấp 3 Hàm Rồng. Năm 1982 khối Chuyên chuyển về Trường Cấp 3 Lam Sơn và 4 năm sau, học sinh Nguyễn Thúc Anh lớp 12T của thầy Phạm Ngọc Quang đoạt Huy chương Đồng Olympic Toán Quốc tế tại Praha (Tiệp Khắc). Đây là học sinh đầu tiên của tỉnh Thanh có giải quốc tế, là tiếng pháo mở đầu có ý nghĩa đột phá cho thành tích huy hoàng của Giáo dục xứ Thanh trên bình diện cả nước.
Nét dáng chủ đạo trong lối sống của Phạm Ngọc Quang là cả ngày lo công tiếc việc. Thương mến nên đồng nghiệp có người cứ thấp thỏm không biết đến bao giờ anh mới xong cái nghiệp “giáo khổ”. Chả riêng gì tôi mà nhiều người đều cùng một ý cái “chất” Phạm Ngọc Quang nó vậy, và luôn như vậy, rành rõ giản dị, vẹn toàn như lời giảng Toán của anh trước học trò.
Cứ mỗi lần ở Thanh ra hay từ Hà Nội về, tôi nhắn tin hay điện thoại hẹn gặp thì anh lại khất sang trưa hoặc cuối giờ chiều, cần kíp quá anh mới phải đổi lịch làm việc. Thì giờ của anh đến lúc hưu vẫn còn bị chia cắt theo từng ô khoảnh như ruộng dưới quê, trao đổi công việc với báo Toán, dạy online trên truyền hình, coi sóc sự học cho mấy sắp nhỏ hay khi gặp bài toán khó thì trò cũ lại nhờ ông online cho cháu qua Zalo. Thi giỏi Toán Quốc gia cuối tháng Giêng, học sinh đội tuyển sẽ nghỉ Tết vào chiều hai chín âm lịch và tập trung học lại ngay sáng mùng Bốn. Học với thầy Quang, học trò cần có sức khỏe và sức chịu đựng, giọng thầy đều đều, vừa giảng vừa ghi chữ đặc kín bảng.
Cách nay ít năm, thầy Quang và vợ là cô Lê Thị Hợi (cô cùng dạy trường Lam Sơn) có chuyến du lịch các nước Đông Âu. Một chuyến đi đầy ý nghĩa khi anh chị tới thăm nơi chị Hợi du học là Trường Đại học Tổng hợp Kracow (Ba Lan) lâu đời bậc nhất thế giới. Đặc biệt trong lần đi này, thầy chủ nhiệm gặp được Nguyễn Văn Quang, em từng đoạt Huy chương Đồng Toán quốc tế năm 1987 tại Cu ba. Tôi nhớ, hồi ấy em Quang luôn tá túc ở gian xép tại chân cầu thang cạnh lớp học. Trường Lam Sơn lúc ấy chưa có kí túc xá. Học trò Quang thuộc diện nhà nghèo nhất lớp, em có nước da mai mái của trẻ thiếu ăn. Quang được như ngày nay do quyết tâm ”cắp cặp” theo thầy chủ nhiệm cùng sự trợ giúp không nhỏ của bạn bè.
Tôi có 2 kỉ niệm với Phạm Ngọc Quang:
Thứ nhất, vừa rồi anh tặng tôi cuốn “Thời hoa đỏ” do anh viết. Sách cầm nặng tay, đọc kĩ, muốn thấu cả tuần mới hết. Không chút bất ngờ về khả năng cầm bút và trí nhớ vi diệu của anh. Điều đặc biệt, đọc xong tôi nhận ra trong anh còn ẩn tàng bao nỗi niềm làng với cái thời mà đời nay gọi là xa vắng. Khi đó, tự dưng tôi nhớ lại một chiều của 40 năm trước, lúc từ trường về nhà, anh nán lại trao tôi cuốn “Thời xa vắng”. Không để tôi hỏi han thêm về tiểu thuyết đang làm nóng dư luận, anh nói luôn, nhà văn Lê Lựu viết cừ lắm, tranh thủ đọc rồi chuyển lại sớm, chú là người anh ưu tiên trước đấy. Người đồng nghiệp của tôi không có điểm gì chung với Giang Minh Sài, từ căn cốt xuất thân, cá tính cùng sự bứt phá vượt qua định phận. Nhưng không hiểu sao anh lại thích truyện này mà lại còn giục tôi đọc nhanh để chuyển cho người khác? Phải chăng, thông qua nhân vật chàng trai làng lụt, anh nhận ra bóng dáng của quê làng, của người cùng thế hệ anh, mà ở đó có người như Giang Minh Sài, nửa cuộc đời, từ hành động đến cảm xúc được tạo dựng từ “lòng tốt” của người khác, non nửa phần sau lại như cây non bị bấng trồng vào miền đất thiếu dinh dưỡng và khí thờ.
Thứ hai, sau hôm Phạm Ngọc Quang đưa học sinh đi Mỹ tham gia kì thi Toán quốc tế, tôi đến phòng hiệu trưởng thì anh có giờ lên lớp. Trên bàn làm việc đặt tấm ảnh cỡ lớn, anh cùng học trò vừa đoạt Huy chương Bạc Toán quốc tế bên cánh đồng của xứ cờ hoa. Có lẽ, đây là cánh đồng ngoại thành, thầy tựa lưng vào thân cây to tán lá xòe rộng, hai chân duỗi, trò lăn trên thảm cỏ, cuộc thi căng thẳng thầy trò tranh thủ xõa để ngày mai vào cuộc mới. Nhìn kỹ tấm ảnh lần nữa, tôi tìm tờ giấy gấp đôi theo chiều dọc đặt cạnh và viết vào đó dòng chữ khá đậm “Sau vụ cày cuốc, anh nông dân Phạm Ngọc Quang nghỉ ngơi bên cánh đồng nước Mỹ”. Thật lạ, lời đề tựa của tôi không gây nên phản ứng gì. Cũng có thể ai đó đã nhanh tay gỡ mảnh giấy đi, còn chữ tôi thì anh đâu có lạ? Một hôm, tại hành lang lớp học, anh cười bảo: - Cứ ranh mãnh như chú chẳng ai ưa cả đâu! Nói rồi anh kéo tôi về phòng, lấy chai rượu Tây đã vơi gần nửa, trao ly rượu, anh nói chậm rãi: - Sa vào sách vở rồi công việc, mụ hết cả người, tới nước ngoài cứ như từ trong rừng ra. Vào phòng tắm trong khách sạn, đủ loại sữa tắm, dầu gội, kem dưỡng da, mỗi loại vài thứ, có đến mươi lăm lọ to nhỏ, cái đặt ngang, thứ úp ngược. Chẳng có nhiều thì giờ để băn khoăn tìm hiểu, thôi thì mỗi thứ lấy một tí bôi vào người kì cọ rồi dội nước cho xong. Anh thoáng cười hiền khi xong đoạn kể. Nụ cười của Hai Lúa xứ miệt vườn lúng túng giữa lúc trúng mùa bội thu.
Với 30 năm trực tiếp cầm phấn, Phạm Ngọc Quang có được 61 học sinh đoạt giải Quốc gia, trong đó 5 em giải Olympic Toán quốc tế; năm 2000 Trường Chuyên Lam Sơn thời đương nhiệm của Hiệu trưởng Phạm Ngọc Quang được Nhà nước công nhận Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới. Một vinh dự lớn đã đến với Phạm Ngọc Quang, anh là đại biểu Quốc hội khóa IX (1992 - 1997), được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu NGƯT năm 1988 và NGND năm 2000. Cũng cần phải thêm rằng, sau nửa thế kỉ làm việc và chiến đấu, lúc trong quân ngũ, khi làm ông thầy hoặc lúc là Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo, Phạm Ngọc Quang luôn trăn trở với sự nghiệp trồng người qua công việc cũng như hàng trăm bài viết trên các báo, tạp chí Trung ương và địa phương; song ở đâu và lúc nào, sau tất cả, người ta vẫn thấy hiện lên một Phạm Ngọc Quang giản dị, dễ gần, nương vào con chữ, thành đạt và đi lên bằng con chữ.
Thời gian nhiều khi thật nghiệt ngã có thể nhanh chóng làm cũ mòn bao thứ ngay cả khi chúng còn rất mới. Nhưng lặng lẽ và chiêm nghiệm cùng nó ta sẽ nhận ra những giá trị không thể bị khuất lấp, đó là tất cả những gì tôi muốn nói về anh - NGND Phạm Ngọc Quang!
Link nội dung: https://saigonmoi24.com/lang-le-thoi-gian-a151563.html